Sequela Christi – Chúa Nhật 3 TN B

Sequela Christi – Chúa Nhật 3 TN B

Mc 1, 14-20
“Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. Đó là lời Chúa.

Trong chúa nhật tuần vừa qua, chúng ta đã cùng khám phá lại đôi nét căn bản của ơn gọi của chúng ta. Đó là một ơn gọi mang tính cá vị giữa chúng ta với Chúa, nhưng ơn gọi này vẫn cần có những trung gian chuyển lời của Thiên Chúa. Ơn gọi đó cũng nhắc nhở mỗi chúng ta rằng, người được sai đi trước tiên là người được mời ở lại với Chúa. Bản văn tin mừng tuần này tiếp tục gợi nhắc chúng ta những nét đẹp của huyền nhiệm ơn gọi của chúng ta. Bản văn chính là câu trả lời cho những trăn trở: Tôi có là người được mời gọi? và tôi sẽ lên đường theo Chúa như thế nào?
1. Ai là người được mời gọi
Bản văn tin mừng bao gồm hai bài trình thuật đi song song. Trước tiên, đó là trình thuật gọi Simon và Anrê. Kế đến đó là trình thuật Chúa kêu gọi Giacôbê và Gioan.
Nếu chúng ta để ý sẽ nhận thấy cấu trúc của hai trình thuật này khá giống nhau theo cùng một trình tự như sau: Chúa Giêsu đi ngang, thấy các ông đang làm việc, Người kêu gọi và các ông bỏ công việc, người thân, đi theo Chúa.
Có thể nói, cách trình thuật này của Marco thật giản dị, nhưng không kém phần sinh động. Bản văn gợi lên cho chúng ta hiệu năng của Lời Thiên Chúa. Thiên Chúa ngỏ lời kêu gọi và con người mau mắn đáp lại lời mời của Người.
Khi đọc bản văn này, nhiều người trong chúng ta vẫn có thói quen áp đặt lời mời gọi này cho ơn gọi của linh mục, tu sỹ. Đây là điều hoàn toàn áp đặt cách định kiến. Kiểu nói “những kẻ lưới người” không thể hiểu cách định kiến như thế. Kiểu nói này diễn tả ý tưởng người được gọi không bị buộc phải từ bỏ nghề nghiệp cũ của họ. Họ cũng không được gọi để trở nên những người “ăn không ngồi rồi”, nhưng được gọi để theo đuổi một nghề nghiệp mới. Họ phải theo nghề loan báo tin mừng.
Cách thức của kiểu nói này cũng đang gợi nhắc chúng ta rằng Chúa Giêsu khi tìm kiếm và mời gọi những người đi theo Chúa, Người cần những con người năng động, nhiệt thành từ những công việc thường ngày. Không chỉ là Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê, nhưng là tất cả những con người năng động và nhiệt thành ngay trong chính công việc thường ngày đều có khả năng được mời gọi để theo đuổi con đường loan báo tin mừng trong tư cách môn đệ của Chúa Giêsu. Nói cách khác, lời mời gọi của Người: “Hãy theo Ta” chính là lời mời gọi dành cho tất cả chúng ta. Vấn đề là chúng ta sẽ bắt đầu cho tiến trình này như thế nào?
2. Đi theo Chúa Giêsu như thế nào?
Trước lời mời gọi: “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu, các môn đệ đầu tiên đã từ bỏ tất cả đi theo ngài. Bởi đâu mà họ có thể đáp trả lời mời gọi này cách mau mắn như thế? Chúng ta có thể dễ dàng để trả lời: vì tin. Nếu so sánh với tin mừng Gioan, chúng ta có thể hình những người trẻ đầu tiên, sau khi đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu, họ đã đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Sau đó, họ đã trở về với công việc đời thường với tinh thần sẵn sàng cho một lời ngỏ của Ngài; và hôm nay, Ngài đã chính thức ngỏ lời với họ. Họ đã chính thức đáp trả và lên đường theo Ngài.
Còn chúng ta thế nào? Chúng ta có phải từ bỏ hoàn cảnh sống và những người thân như những môn đệ đầu tiên? Không, những cách hành động tầm thường không phù hợp với tin mừng. Thiên Chúa chỉ mời gọi một số người dấn thân vào trong ơn gọi Loan báo Tin mừng cách đặc biệt. Phần chúng ta, chúng ta được chọn không phải để thực thi công việc này cách chuyên biệt, nhưng được mời gọi để trở nên những chứng nhân giữa đời thường của chính mỗi chúng ta. Nói cách khác, giữa bề bộn của công việc đời thường, chúng ta được mời gọi để sống thêm giá trị mới của người môn đệ là loan báo tin mừng.
Marco thuật lại, sau khi được gọi, các môn đệ đầu tiên đã “Lập tức các ông bỏ lưới theo Người” và “Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người”. Từ ngữ “Đi theo” vừa gợi lên hành động của kẻ tin, vừa gợi lên thái độ của người từ bỏ. Tiến trình từ bỏ “metanoia” nghĩa là tiến trình của một con người biến đổi toàn bộ đời sống của mình. Đây cũng chính là tiến trình “ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Bởi thế, người môn đệ đích thực đi theo Chúa Giêsu phải là người dấn thân vào trong tiến trình của cuộc hoán cải này. Bao lâu, một con người chưa hoán cải bấy lâu họ chưa lên đường, chưa đi theo Ngài theo đúng nghĩa.

Dù chúng ta là ai, chúng ta đã và đang được Chúa mời gọi đi theo Ngài để phục vụ trong môi trường nào, trong ơn gọi nào đi nữa, nếu chúng ta không ý thức đủ rằng, tôi là người đã được gọi, và tôi đã bắt đầu lên đường khởi đi từ tiến trình hoán cải, chúng ta chưa thực sự đi theo Ngài.
Lạy Chúa Giêsu,
Những môn đệ đầu tiên đã được gọi và chấp nhận bước vào trong tiến trình của người môn đệ bằng con đường hoán cải. Bước quyết định của họ đã làm nên tiến trình đi theo Chúa của các ông. Chúa cũng đã và đang mời gọi chúng con đi theo Chúa như thế! Xin dạy chúng con cũng biết can đảm bước vào tiến trình này với tất cả sự nỗ lực hoán cải của chúng con để chúng con cũng có thể đạt tới đích điểm mà Chúa mời gọi chúng con đi. Xin Chúa chúc lành cho những nỗ lực của chúng con và làm cho chúng con trở những môn đệ đích thực như lòng Chúa mong ước. Amen.

Chúa nhật 2 TN B: Lời Mời của Tình Yêu

Chúa nhật 2 TN B

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Ga 1, 35-42
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: “Các ngươi tìm gì?” Họ thưa với Người: “Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người đáp: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô”. Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá”.

Với ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã bước vào giai đoạn thứ nhất của mùa phụng vụ thường niên. Trong suốt mùa thường niên, chúng ta sẽ cùng nhau suy niệm về hành trình loan báo tin mừng trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu; qua đó, chúng ta được mời gọi khám phá lại những đòi hỏi của Tin mừng mà Chúa Giêsu đã giảng dạy để sống những giá trị đó trong cuộc sống thường ngày của chúng ta với tư cách người môn đệ Chúa. Bản văn tin mừng chúa nhật đầu tiên của mùa thường niên hôm nay gợi nhắc lại cho chúng ta về ơn gọi khởi đầu của mỗi chúng ta.
1. Lời mời gọi mang tính cá vị
Mỗi chúng ta, bên cạnh ơn gọi nền tảng là ơn gọi của Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được Thiên Chúa mời gọi và trao phó một ơn gọi khác, rất cá nhân, rất riêng biệt. Nói cách khác, đó là một ơn gọi mang tính chất cá vị, giữa mỗi chúng ta với Thiên Chúa – Đấng đã kêu gọi và trao phó sứ vụ cho mỗi chúng ta.
Bởi ơn gọi của chúng ta mang tính cá vị, nên Thiên Chúa thường chọn gọi mỗi chúng ta theo cách thức của Ngài: rất riêng tư giữa chúng ta với Ngài. Trong bản văn bài đọc một, sách Samuel quyển thứ nhất, Samuel đã kể lại việc ông được Chúa gọi mời cách rất riêng tư và trong một cách thức cũng rất riêng – giữa đêm khuya.
Thế nhưng, Samuel đã chỉ có thể nghe và nhận ra tiếng gọi này, khi Samuel đang sống giữa sự thinh lặng của đêm trường; điều quan trọng hơn, Samuel chỉ có thể đáp trả được tiếng gọi rất riêng tư và cá vị này “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe” ngang qua sự trợ giúp của một ai khác – đó là thầy Hêli. Đồng thời, đó cũng chính là sự nỗ lực của bản thân để “Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa”.
Trong bản văn Tin Mừng, “Andre và hai người nữa” sau khi nghe Gioan Tẩy Giả đưa tay chỉ và giới thiệu, họ đã lên đường đi theo và ở lại với Chúa. Đến lượt mình, Andrê tiếp tục ngỏ lời mời người anh em của ông và Simon đã đến gặp Chúa và theo Ngài.
Với chúng ta hôm nay cũng thế, Thiên Chúa vẫn đang mời gọi mỗi người theo cách thức riêng Ngài đã định. Ngài cũng đã chuẩn bị một ai đó để trợ giúp chúng ta lắng nghe tiếng Ngài. Chúng ta chỉ có thể lắng nghe và đáp trả tiếng Ngài khi sẵn lòng lắng nghe .
2. Những mẫu thức trung gian ngỏ lời của Thiên Chúa
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông đưa tay chỉ về phía Đức Giêsu và lên tiếng nói với học trò và mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Thái độ của Gioan Tẩy Giả không dễ dàng để thực hiện như chúng ta nghĩ. Bởi lẽ, khi làm cử chỉ này, Gioan biết rằng ông có thể mất đi tất cả những người học trò của mình. Và quả thực, ngay sau đó, ông đã mất những người học trò này. Đây chính là thái độ của những người biết xóa mình.
Phần “Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô”. Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Thái độ của Anrê khi nói về Chúa và dẫn em tới với Chúa đã gợi nhắc một thái độ của người tin tưởng vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin cho người khác. Thái độ của những mẫu thức trung gian ngỏ lời của Thiên Chúa.
Phần chúng ta, không chỉ là người được mời gọi đi theo, chúng ta còn được mời gọi để trở thành trung gian ngỏ lời của Thiên Chúa cho anh chị em mình. Chúng ta có thể lên tiếng như thế nào trước sứ vụ này? Đâu là nền tảng của ơn gọi của chúng ta?
3. Nền tảng của lời chứng
Thánh Gioan tông đồ, một trong ba người đầu tiên đi theo Chúa sau lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả đã ghi lại:“Họ đã đến xem chỗ người ở, và ở lại với Người ngày hôm đó”. Sự ghi nhận của Gioan đã gợi lên cho chúng ta nền tảng của ơn gọi của người môn đệ Chúa Giêsu.
Trước hết, ơn gọi của người tông đồ trước tiên là ơn gọi đến mà xem nơi Chúa ở. Đó chính là lời mời gọi của hành trình khám phá.
Kế đến, ơn gọi của người môn đệ Chúa Giêsu chính là “Ở lại với Người”. Lời mời gọi “Ở lại với Người” chính là trở thành bạn hữu của Người. Nói cách khác, ơn gọi của người môn đệ là trở thành bạn hữu của Chúa.
Quả thế, chỉ khi đến và ở lại với Người với tư cách những người bạn thân của Chúa, chúng ta mới có thể hiểu rõ những tâm tư tình cảm của Người và sẵn sàng chia sẻ tất cả những gì chúng ta có thể cảm nhận được cho anh chị em mình. Với Gioan Tẩy Giả đó đã là một cảm nghiệm sâu xa sau chuỗi ngày sa mạc. Với Hêli, đó là kinh nghiệm sống nơi Nhà Chúa trong tĩnh lặng gẫm suy. Với ba môn đệ đầu tiên, đó là kinh nghiệm ở lại và sống với Chúa ngày hôm đó.

Mọi lời mời gọi đến với mỗi chúng ta đều khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu thương, Chúa luôn có những chương trình rất riêng dành cho mỗi chúng ta. Chúng ta cũng cần những khiêm tốn cần thiết để nghe tiếng ai đó đang thay Chúa ngỏ lời với chúng ta cách riêng tư. Chúng ta cũng cần có những khoảng riêng rất riêng với Ngài trong tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Người và chỉ như thế chúng ta mới có thể thay Người tiếp tục ngỏ lời với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hiểu và cảm nghiệm được tình yêu Chúa dành cho chúng con qua lời mời gọi Chúa đã và đang dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết quảng đại không chỉ đáp lại lời mời của Chúa, nhưng còn biết quảng đại để nói thay tiếng nói của Chúa đến anh chị em chúng con. Amen.

BÀI GIẢNG THÁNH LỄ AN TÁNG BÀ CỐ TÊ-RÊ-XA

BÀI GIẢNG THÁNH LỄ AN TÁNG BÀ CỐ TÊ-RÊ-XA
Nhà thờ GX Bình An, thứ tư 07 tháng 01 năm 2015

Lời Chúa Mt 11:25-27
“Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ thân mến,

Sáng thứ bảy 03/01 vừa qua, khi được người anh em Sa-lê-diêng Don Bosco là cha Tôma Aquino Trần Quốc Tuấn gọi điện báo cho biết Bà Cố Tê-rê-xa đã được Chúa gọi về với Ngài, đồng thời ngỏ ý xin tôi chia sẻ một vài suy niệm Tin Mừng trong Thánh Lễ An Táng, trong đầu tôi đã lóe lên câu trên của đoạn Tin Mừng Mát-thêu chương11, câu 25-27. Để giải thích lý do lời mời, cha Tuấn viện lẽ tôi là người quen biết nhiều với gia đình. Về điều này, tôi phải thú thực: tôi chỉ lui tới gần gũi với gia đình vào một thời xa xưa, đặc biệt vào những năm 1979 – 1987, khi gia đình này cũng như rất nhiều gia đình khác trong khu vực còn đang rất khó khăn. Lúc đó chính cha Tuấn cũng mới là một tu sĩ vừa kết thúc năm tập và đang trong thời kì khấn tạm; khi đó em ngài là cha Giu-se Thụ và vài người em trai khác hàng tuần vẫn đạp xe đạp ngang suốt chiều dài Tp. Sài-gòn xuống tận Ba Thôn (huyện Hóc Môn lúc đó) để tham dự khóa tìm hiểu ơn gọi. Nhất là trong thời gian thầy Tuấn được gọi thi hành nghĩa vũ quân sự, tôi, trong tư cách bề trên của thầy, thấy có bổn phận phải thay thầy gần gũi với gia đình, cách riêng vào các dịp Tết Nguyên Đán và giỗ hỉ. Phải, chính trong bối cảnh rất hàn vi đó, khi mà sự liên kết giữa gia đình này và cộng đoàn tu sĩ chúng tôi còn dựa trên cả việc làm ăn (như giúp tìm mua cây so đũa để trồng nấm mèo, hay bán cói dệt chiếu v.v), mà tôi, một người chưa một lần được nếm cảm bầu khí của một gia đình công giáo đích thực, đã chớm hiểu được sự sâu sắc của lời ngợi khen Đức Ki-tô thuở xưa khi thốt lên: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”
Đúng vậy, trong cái gia đình bình dị của ông cố Gio-a-kim và bà cố Tê-rê-xa thời đó, với 12 người con lớn nhỏ đùm bọc lẫn nhau, cùng với vài phần tử khác chen chúc trong một nếp nhà chật hẹp, phải cơi thêm một căn gác xép ọp ẹp cho có thêm diện tích sinh hoạt gia đình, sinh sống chủ yếu bằng nghề dệt chiếu, tôi mơ hồ nhận ra, nơi đây đang toát ra một điều gì đó vô cùng vĩ đại. Cái vĩ đại đó tôi tránh dùng chữ ‘đức tin’ để mô tả, vì đôi khi chữ này bị hiểu theo một nội dung quá máy móc; đúng hơn đó chính là sự phong phú vượt bậc mà Đức Ki-tô đã phải cất tiếng ca ngợi Chúa Cha. Chính sự phong phú này cắt nghĩa tại sao gia đình nghèo nàn này lại luôn duy trì được sự bình an, tại sao từ đây đã sản sinh ra các ơn gọi thánh hiến linh mục và tu sĩ quảng đại, và tại sao các thế hệ con cháu, dầu có làm ăn sinh sống ở bất cứ nơi đâu, cũng vẫn tiếp tục khai thác sức mạnh Tin Mừng trong đời sống gia đình qua việc quan tâm giáo dục con cái giữa một xã hội nhiều điên đảo.
Nói lên những điều này trong Thánh Lễ an táng hôm nay, tôi không có ý lên tiếng tung hô ca tụng bà cố Tê-rê-xa đã khuất bóng, hay ông cố hiện còn đang có mặt nơi đây. Chủ ý của tôi là mong muốn mời gọi toàn thể cộng đoàn phụng vụ chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ cân xứng với việc Chúa gọi bà cố Tê-rê-xa – người tín hữu ‘bé mọn’ về xum họp với Ngài. Chắc chắn chính lúc này đây bà cố Tê-rê-xa, hơn bất cứ ai khác trong số chúng ta đang ngồi trong ngôi thánh đường Giáo Xứ Bình An thân thương này, đang hùng hồn cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa nhân lành vì đã đoái nhìn đến phận hèn mọn yếu đuối của mình, một sự hèn mọn đã lộ rõ qua bao biến cố trong suốt cuộc đời đã qua; hèn mọn về mặt kinh tế xã hội đã đành, mà có lẽ còn hèn mọn cả về những yếu đuối, khiếm khuyết về mặt luân lý tinh thần, vì trong tư cách phàm nhân, không một ai có thể tránh khỏi. Tôi thiết nghĩ sự vĩ đại của Tin Mừng chính là đây, và ơn gọi Ki-tô hữu phong phú biết bao hệ tại chính yếu ở điều này. Chính lúc này đây, dưới ánh sáng của Lời Chúa, hầu như tay chúng ta đang chạm tới được sự vĩ đại và phong phú tuyệt diệu đó! Đây cũng chính là lý do tại sao Ki-tô hữu chúng ta cứ tuôn đến, hiệp nhau cùng dâng lên Thiên Chúa là Cha ‘Thánh Lễ tạ ơn’ vào chính cái ngày mà thiên hạ vẫn thường coi là tang tóc vĩnh biệt. Bởi vì vào chính ngày an táng, người Công Giáo chúng ta nếu có dành ra một phần để cầu nguyện độ vong, thì phần chính vẫn phải được dành cho việc ngợi khen cảm tạ về cái ‘mạc khải cho kẻ bé mọn’ mà người anh em hoặc chị em quá cố đã được diễm phúc lãnh nhận trong cuộc sống gian khổ nơi dương thế.
Riêng đối với anh chị em tín hữu chúng ta hiện diện trong Thánh Lễ an táng hôm nay, cách riêng đối với đại gia đình ông cố và các con cháu đang tề tựu đông đủ, việc ra đi của bà cố Tê-rê-xa phải là dịp thuận tiện nhất để thúc đẩy mỗi người khám phá ra điều mà Chúa Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết, nhưng lại chỉ muốn mạc khải cho những người bé mọn. Đặc biệt nếu trong số các con cháu và ai đó trong chúng ta hiện đang có mặt trong Thánh Lễ này, ngày nay có thể có học thức cao hơn hẳn bà cố, giầu có và thành đạt hơn bà cố, địa vị và danh giá vượt xa bà cố, thì chính lúc này đây, trong chính giờ phút tiễn biệt tràn ngập niềm tin và hy vọng này, đều được bà cố Tê-rê-xa nhắc nhở để thâm tín hơn nữa về cái nhu cầu nền tảng và quan trọng nhất của Tin Mừng, đó là hãy biết làm cho mình trở nên bé mọn trước mặt Thiên Chúa hầu có thể sống trong mạc khải vĩ đại về một Thiên Chúa từ nhân đầy lòng xót thương.
Xin cố Tê-rê-xa, nhờ Thánh Lễ an táng chúng con tiếp tục hiệp dâng, cầu bầu cùng Chúa cho chúng con, để cùng với bà cố và với Đức Giê-su Ki-tô, chúng con biết liên kết lời ngợi khen dâng lên ‘Chúa Tể trời đất’, đến muôn thuở muôn đời. A-men

GIÁO DỤC CÔNG GIÁO NĂM MƯƠI NĂM SAU THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT (PACEM IN TERRIS)

GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
NĂM MƯƠI NĂM
SAU THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT (PACEM IN TERRIS)

KEVIN RYAN
(Ban Mục Vụ Giáo Dục Công Giáo Gp. Sàigòn chuyển ngữ)

Di sản giáo dục của Giáo hội Công giáo khai mở bằng việc Đức Kitô rao giảng trong các thành thị của Judea và việc Ngài truyền dạy các môn đệ của Ngài. Sau khi Ngài chết và sống lại, các môn đệ của Ngài tập hợp lại để thi hành lệnh truyền của Ngài “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc16,15). Trong bối cảnh của sự hiểu biết ngày nay về sứ mệnh giáo dục, sứ mệnh của các môn đệ là sứ mệnh đòi hỏi khắt khe, nhưng hạn hẹp: loan truyền tin mừng của Phúc âm.
Qua các thế kỷ, sứ mệnh giáo dục của Giáo hội Công giáo đã phát triển và mở rộng. Quá trình loan báo Tin Mừng đã được các môn đệ mở đầu thì ngày nay đã phát triển thành giáo hội lớn nhất trên thế giới. Sứ mệnh đó đã mở rộng vượt quá việc truyền bá câu chuyện về Đức Kitô. Khi các nhà truyền bá Phúc Âm ban đầu loan truyền tin mừng, họ đã tìm kiếm một nền tảng hợp lý cho đức tin. Cụ thể, các Giáo phụ tiên khởi đã đặt nền móng hợp lý cho đức tin Kitô giáo, và trong quá trình đó các ngài đã đưa Giáo hội Công giáo đi đầu về sự uyên bác và sự thuyết trình được trình bày có biện luận chặt chẽ. Một hệ thống giáo dục học đường mà khi bắt đầu chỉ là những trường nhỏ thuộc nhà thờ chính tòa và các chủng viện, đã tiến triển thành hệ thống đại học. Các trung tâm nghiên cứu quan trọng được thành lập, được củng cố và được nuôi dưỡng tại Bologna, Paris, và Coimbra và khắp châu Âu. Trong lúc đó, giáo hội trở thành nơi chất chứa, người bảo quản và tổng hợp kiến thức cả thần học và tự nhiên từ cả các nền văn hóa cũ và mới. Sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo hội đã lan tới Tân Thế Giới thế nào thì sứ mệnh giáo dục của Giáo hội cũng mở rộng ở đó như vậy. Ý tưởng coi đại học như một thể chế dành cho sự phát triển tập trung kiến thức của con người đã là một trong những món quà cao quý của Giáo hội Công giáo cho cộng đồng thế giới.
Cho dù xuất hiện mãi sau này, nhưng ý tưởng về việc giáo dục đại chúng đã nhận được nguồn cảm hứng trong thế kỷ XVI và XVII từ cuộc sống và hoạt động của các giáo sĩ và tu sĩ, chẳng hạn như thánh Francis de Sales. Các dòng tu được thành lập dành để giáo dục giáo dân. Hiện nay, Giáo hội Công giáo có hệ thống giáo dục lớn nhất thế giới. Các hoạt động loan truyền Tin Mừng và phát triển trí tuệ được kết hợp với mở thêm các trường học giáo xứ được điều hành bởi các dòng tu của các linh mục, các sư huynh và các nữ tu là những người coi công việc này là trọng trách được Chúa giao cho.

Triết lý Giáo dục Công giáo
Từ những nỗ lực này một Triết lý giáo dục Công giáo đã mở ra. Triết gia người Pháp, Jacques Maritain, viết rằng “giáo dục con người là làm cho con người thấy rõ” bản chất tinh thần và vật chất của mình (tr. 9). Ông nhận xét tiếp, “Mục đích tối hậu của giáo dục làm cho con người quan tâm tới cuộc sống cá nhân và tiến bộ tinh thần của mình” (tr. 13). Ông còn nói thêm “Điều quan trọng hơn cả chính là nội tâm, nguồn sống động của lương tâm cá nhân trong đó phát sinh chủ nghĩa lý tưởng, và sự quảng đại, ý thức về luật pháp và ý thức về tình bạn, kính trọng người khác, nhưng đồng thời sự vững chắc không lệ thuộc công luận” (tr. 16). Giáo dục “là hướng dẫn con người trong động lực tiến hóa qua đó con người hình thành bản thân như một con người – được trang bị kiến thức, và các đức tính luân lý – trong khi đồng thời truyền đạt cho người đó di sản tinh thần của quốc gia và nền văn minh sở tại, và nhờ đó duy trì những thành quả lâu đời của bao thế hệ” (tr. 10).
Thánh Giáo Hoàng John XXIII trong thông điệp Pacem in Terris (1961) đã nêu rõ chính sách chính thức của Giáo hội như sau:
Luật tự nhiên cũng mang lại cho con người quyền chia sẻ các lợi ích của văn hoá, và do đó quyền được hưởng một nền giáo dục cơ bản và đào tạo về kỹ thuật và nghề nghiệp theo kịp với giai đoạn phát triển giáo dục trong đất nước sở tại. Mọi nỗ lực phải nhằm bảo đảm rằng con người có thể được, dựa trên phẩm chất, tiếp tục học cao hơn nữa, để bao nhiêu có thể họ có thể nắm giữ những chức vụ và đảm nhận các trách nhiệm trong xã hội của con người phù hợp với những năng khiếu tự nhiên của họ và những kỹ năng mà họ đã thủ đắc (13).
Ngay cả khi, năm sáu thập niên trước đây, Maritain và Thánh John XXIII đề ra các lý tưởng giáo dục này, các ngài cũng nhìn nhận những mối đe dọa lớn lao cho sự giáo dục cá Kitô hữu. Trong số đó mối đe dọa chính yếu là sự bá chủ giáo dục bởi kiến thức khoa học (Maritain, tr. 5). Tuy nhiên, ít ai có thể hoài nghi về những lợi ích phi thường cho con người mà sự hiểu biết và áp dụng phương pháp khoa học của chúng ta đã mang lại. Nó đã mang lại vô kể lợi ích cho con người, nhưng con người đã và còn phải tiếp tục trả giá.
Nền giáo dục hiện đại, đáng chú ý nhất, đó là, nền giáo dục khoa học, đã là tất cả nhưng đã lột trần nội dung bản thể học của nó (Maritain, tr. 4). Những câu hỏi thiết yếu, chẳng hạn như,“Con người là gì?” “Liệu có linh hồn hay không?” “Tinh thần có tồn tại không hay chỉ có vật chất thôi?” “Con người tự do hay được định đoạt?” “Cuộc sống cao thượng là gì?” hiếm khi được đặt ra. Nhưng nếu và khi một câu hỏi như thế được nêu ra, câu trả lời được chấp thuận duy nhất là câu có thể quan sát và đo lường được. Nhưng Maritain cho biết, học sinh ngày nay có thể có vài câu trả lời cho câu hỏi “Con người là gì?”, nhưng hiếm khi họ đối mặt với ý tưởng Hy Lạp, Do Thái, và Kitô giáo về con người:
Con người là một động vật được phú cho lý trí, chân giá trị cao nhất của nó nằm trong trí năng; và con người là một cá nhân tự do trong tương quan riêng tư với Thiên Chúa, sự công chính cao cả của nó cốt ở việc tự nguyện tuân giữ lề luật của Chúa; và con người là một tạo vật tội lỗi và bị thương được được mời gọi đến cuộc sống của Thiên Chúa và sự tự do của ân sủng và sự hoàn thiện tối thượng của nó bao gồm tình yêu (tr. 7).
Như vậy, học sinh thời nay thừa hưởng và sống ở cơ chế, bị teo tóp của vấn đề họ là ai và, vì thế, những gì họ phải làm với cuộc sống của họ. Chính triết lý giáo dục phổ biến này và nền văn hóa nó đã tạo ra là cái các trường và các đại học Công giáo phải đấu tranh và tìm cách vượt qua. Dường như không chỉ sự thánh hóa các linh hồn ở vào tình trạng nguy ngập. Trong khi một số sản phẩm của kiến thức khoa học đóng góp cho sự thăng tiến con người, một số sản phẩm kỹ thuật khác (chẳng hạn, vũ khí hạt nhân, và các công cụ của chiến tranh vi trùng) tăng thêm đe dọa cho chính sự tồn tại của nhân loại. Như vậy, sứ mệnh giáo dục Công giáo đã tiến triển vượt quá việc loan báo Tin Mừng, nhưng lại trở thành một đối trọng để hoặc hiệu chỉnh những bóp méo của kiến thức khoa học hiện đại về sự hiểu biết của chúng ta về nhân tính và ý nghĩa của sự hiện hữu.

Bản chất của nền Giáo dục Công giáo
Như Aristotle đã dạy chúng ta trong Nicomachean Ethics và như đã được lặp lại bởi các nhà sư phạm Công giáo suốt bao thế kỷ, mục đích của giáo dục là sự hạnh phúc. Theo sự hiểu biết của Công giáo, mục đích là sự hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vậy bản chất của giáo dục mà Giáo hội sẽ phải cổ vũ để dẫn đưa con người tới sự hạnh phúc là gì?
Theo ý kiến hiện nay, “giáo dục” là một trong những từ mà khi được áp dụng sẽ bao gồm một bề dày kinh nghiệm của con người. Nó bao gồm từ khi lọt lòng đến lúc chết. Ngay cả khi giới hạn trong giáo dục học đường, lĩnh vực áp dụng cũng rất rộng rãi. Trong khi lẽ ra phải có một sợi dây tri thức nhất quán xuyên suốt, khá rõ ràng những gì các nhà sư phạm Công giáo nên cung cấp cho trẻ năm tuổi và các sinh viên đại học thì khác nhau. Hơn nữa, nội trong một nhóm tuồi cũng có những khác biệt lớn về khả năng tri thức và năng lực lãnh nhận và thụ hưởng từ một chương trình học. Dù vậy, như triết gia Michael Pakaluk (2011) đã viết, ba câu hỏi tạo sinh khí cho nội dung của một nền giáo dục Công giáo chất lượng tốt: Biết nó có tốt không? Biết nó có lợi ích không? Biết nó có vui thú không?
Câu trả lời cho câu hỏi “biết có tốt không” là Chân lý. Trong khi người đời định nghĩa chân lý là một sự kiện, định lý, hoặc nguyên tắc được chứng minh hoặc không thể bàn cãi, Thánh Thomas lại khẳng định rằng chân lý là sự tương hợp của trí năng với sự vật, Veritas est adoequatio intelletus et rei (S.Th., 1274). “Sự vật” là thực tại, chất liệu của sự sống. Một số thuộc vật chất và một số thuộc tinh thần. Mối quan tâm đặc biệt của nhà sư phạm Công giáo là trả lời những câu hỏi cốt lõi đó của con người thường bị các nhà sư phạm thế tục bỏ qua hoặc trả lời một cách hời hợt. Những câu hỏi chẳng hạn như,“Bản chất đích thực của một người là gì và một cuộc sống xứng đáng là gì?” “Các chân lý về sự hiện hữu của Thiên chúa là gì và làm sao con người có thể biết được Thiên Chúa?”; “Con người tự do hoặc đã được định đoạt, và nếu tự do, con người phải sử dụng sự tự do của mình như thế nào?” (Pakaluk, 2011).
Câu hỏi về “biết có lợi không” được trả lời bởi liệu nó có tạo ra một điều có ích hay không. “Kiến thức hữu ích nhất tạo ra các hàng hóa tuyệt hảo. Do đó, kiến thức hữu ích nhất dù sao cũng bao gồm: sự am hiểu các nguyên tắc của một xã hội tự do; sự hiểu biết về cách tạo ra sự tạo ra sự giàu có; sự hiểu biết về một cuộc hôn nhân và cuộc sống gia đình hạnh phúc; sự hiểu biết về các đức tính tốt.” (Pakaluk, 2011) Nó cũng bao gồm những khối kiến thức, chẳng hạn như khoa học tự nhiên, toán học, ngôn ngữ, môn luận lý và các môn tri thức khác.
“Biết có vui thú” phải được hướng dẫn bởi sự hiểu biết và đánh giá của chúng ta về điều đáng mong muốn. Con người bị lôi cuốn đến với cả những thú vui thanh cao và thấp hèn và một trong những thực tại của cuộc sống ngày nay là chúng ta bị vây bọc và là mục tiêu của những thú vui đụng chạm đến các thèm muốn thấp kém, các khoái lạc của chúng ta, chẳng hạn như sách báo khiêu dâm, lôi cuốn các bản tính xác thịt của chúng ta, và, chẳng hạn những trò bắn giết thú vật, làm thỏa mãn khía cạnh thú tính của chúng ta. Do đó, điều quan trọng là sự giáo dục Công giáo bộc lột và giáo dục học sinh vừa hiểu vừa đánh giá đúng văn học tốt và thi ca, âm nhạc, điêu khắc và khiêu vũ. Sự có được động tá thể chất, trong thể thao hoặc khiêu vũ, cũng là chất liệu thích hợp của một nền giáo dục toàn diện.
Ngoài những trường chuyên, chẳng hạn như các trường hướng nghiệp hay chuyên ngành, các trường Công giáo phải được hướng dẫn rõ ràng bởi những câu hỏi hướng-mục-đích về chân lý phổ quát, tính hữu ích và niềm vui. Các chương trình học ở mỗi cấp độ phải được quy định và kiểm tra bởi những tiêu chuẩn này.

Giáo dục và Giáo dục học đường
Cho tới những thế kỷ gần đây, sự giáo dục chính quy là một sự kiện hiếm hoi và thất thường. Vì những lý do của sự tồn tại dựa vào nhau, cha mẹ là nhà giáo dục đầu tiên của con cái. Trừ một số ít may mắn có gia sư, các phụ huynh và gia đình mở rộng là những người cung cấp sự giáo dục. Các mục đích của loại giáo dục tồn tại này là sự tồn tại liên tục và chỉ để tái tạo một cách thành công cuộc sống của cha mẹ mình.
Trước kia, sứ mệnh giáo dục Công giáo mở rộng vượt quá việc loan báo tin mừng tới việc tạo ra và phổ biến kiến thức. Giáo dục chính quy ở nhà trường trước tiên dành cho các giáo sĩ và rồi cho những người thế tục ưu tú. Sự bành trướng rộng rãi nền giáo dục xảy ra khi Giáo hội mở rộng sứ mệnh này hơn nữa để bao gồm toàn bộ giáo dân. Ban đầu hồi thế kỷ XVI và XVII, Giáo hội đấu tranh cho sự phát triển cái đã trở thành sự giáo dục ở trường tiểu học và trung học. Khi các cơ chế của nhà nước phát triển, nó nắm quyền giáo dục học đường, nhưng thường có sự hợp tác và có những mục đích chung với các giới chức tôn giáo.
Tuy nhiên, lịch sử của ba thế kỷ qua đã chứng kiến tình trạng ngày càng tan vỡ và phân hóa giữa các mục đích và hoạt động giáo dục của giáo hội và nhà nước. Hồi thế kỷ XVIII, các học giả và nhà hoạch định chính sách của Pháp đã đưa ra sự biện hộ cho nỗ lực giáo dục học đường độc quyền của nhà nước cho dân thường. Hồi thế kỷ XIX, “các thử nghiệm” của nền cộng hòa mới là Pháp và Mỹ, phát triển những hệ thống học đường đại quy mô do nhà nước quản lý, những hệ thống dần dần xóa sạch yếu tố và viễn cảnh tôn giáo khỏi giáo dục học đường.
Kinh nghiệm của nước Mỹ là một ví dụ về sự tục hóa giáo dục học đường dần dần, nhưng dường như không thể ngăn chặn tại nhiều vùng của thế giới. Những người định cư ban đầu trong khu kiều dân Massachusetts của Tân Thế Giới đã sợ rằng con cái của họ, bị cắt đứt khỏi những gì mà họ cho là thế giới văn minh, sẽ gặp nguy hiểm. Vào năm 1647, cơ quan lập pháp còn non kinh nghiệm của thuộc địa Massachusetts đã đối phó lại và thông qua Đạo luật Old Deluder Satan (Eberling, 1999). Nó thúc đẩy dân định cư thiết lập trường học để dạy chữ với mục đích rõ rệt là để đọc Kinh thánh. Sự tiếp cận Kinh thánh được xem như cách hiệu quả nhất để thoát khỏi nanh vuốt Satan. Trong thực tế, họ dùng quyền của nhà nước để thiết lập hệ thống trường tiểu học và trung học vì mục đích tinh thần. Đó là bảo đảm cho con cái họ được học các chân lý của Kitô giáo.
Kinh thánh Tin Lành và các nguyên tắc đạo đức Kitô giáo là những trụ cột chính trong các trường học suốt thời kỳ Thuộc địa Mỹ và cả những năm nước Mỹ mới trở thành một quốc gia độc lập. Các nhà lãnh đạo cuộc Cách mạng Mỹ và những người thành lập đất nước mới này đã bênh vực việc thiết lập trường công được hỗ trợ thuế và biện minh cho việc dạy đạo đức dựa trên tôn giáo nhằm nâng “cao ý thức trách nhiệm đạo đức của quần chúng vốn cần thiết cho sự an toàn của chính họ và chính quyền pháp trị” (Ryan và Bohlin, 1999, tr. 20).
Tuy nhiên, những căng thẳng về sự kiểm soát nội dung giáo dục học đường bắt đầu hồi thế kỷ XIX. Trước tiên, nhằm biện minh cho “việc xúc tiến hiệu lực công cộng,” các viên chức giáo dục bang, chẳng hạn như Horace Mann và những người khác, đã tiến hành thay thế các trường do Giáo hội bảo trợ bằng “trường công.” Mann nhấn mạnh rằng “thày giáo tại bàn làm việc của họ thực thi một ơn gọi thánh hơn thừa tác viên ở tòa giảng của họ” (Glenn, 2012, tr. 40). Thứ hai, vấn đề của việc bang cổ vũ một tôn giáo cá biệt đã làm giảm đột ngột số người Công giáo Ái Nhĩ lan và Đức nhập cư ồ ạt hồi thế kỷ XIX, những người lo lắng về sự tiếp xúc với Kinh thánh Tin lành, đã đua nhau bỏ trường công và thiết lập một mạng lưới rộng lớn các trường Công giáo.
Chủ nghĩa tục hóa gia tăng của quốc gia đã dẫn đến việc dần dần loại bỏ viễn cảnh tôn giáo khỏi các trường công do bang hỗ trợ hồi cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Các di tích của Kitô giáo, chẳng hạn như các cuộc rước và bài hát Giáng sinh vẫn còn, nhưng sau Thế chiến II chẳng bao lâu thì người ta đã cố tình làm cho trường công trở thành “các vùng phi-tôn giáo.” Do vậy suốt một khoảng thời gian gần 140 năm, bang đã giành được cái mà Charles Glenn gọi là “sự gần như độc quyền giáo dục của trường công” (tr. 40), một nền giáo dục loại trừ và bác bỏ có hệ thống sự hiểu biết thần học về cuộc sống của con người.
Mười hai năm đầu thế kỷ XXI, các trường công của Mỹ dạy dỗ 88% học sinh tiểu học và trung học, chỉ có 6% theo học các trường Công giáo trước kia rất rộng lớn. Trong khi tính yếu kém tri thức của chương trình học trong hệ thống trường công và sự trống rỗng đạo đức của văn hoá của nó được thừa nhận rộng rãi, cha mẹ Công giáo có ít lựa chọn. Họ phải đóng thuế nặng cho hệ thống giáo dục do nhà nước bảo trợ hàng năm chi tiêu trung bình gần 12.000 mỹ kim cho mỗi học sinh (Ryan và Cooper, 2013, tr. 365). Để con cái của họ theo học thần học, đại đa số cha mẹ Công giáo phải dựa vào các chương trình ngắn, tuần-một-lần, do các giáo xứ điều hành. Dù được nhiều giáo viên tình nguyện đầy thiện chí dạy dỗ, ít người có hiểu biết thần học hoặc sự chuẩn bị Kinh thánh cho công việc. Ngoại trừ thiện chí của họ, giáo dục tôn giáo của giới trẻ Mỹ là một thất bại rõ rệt.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, cuộc nghiên cứu lớn nhất và công phu nhất của Mỹ về các thực hành và niềm tin tôn giáo của giới trẻ Mỹ được tiến hành bởi một nhóm các nhà xã hội học được Christian Smith dẫn đầu. Dưới tựa Nghiên cứu Quốc gia về Giới trẻ và Tôn giáo, nó khảo sát một mẫu được chọn kỹ lưỡng gồm 3340 thanh thiếu niên. Một trong những phát hiện gây ngạc nhiên nhất của nghiên cứu này là mức độ tương đối thấp về lòng đạo đức và tính không nghiêm của thanh thiếu niên Công giáo so với các thanh thiếu niên thuộc các truyền thống Kitô giáo khác của Mỹ. Trong số những phát hiện của họ là khi đem so với những người Tin Lành Bảo Thủ, những người Tin Lành da mầu và những người theo Giáo phái Mormon, thanh thiếu niên Công giáo:
– Có mức tham dự các nghi lễ tôn giáo thấp hơn;
– Tham dự các nghi lễ tôn giáo ít hơn nếu hoàn toàn để cho họ tự quyết;
– Tường thuật rằng tôn giáo của họ ít quan trọng hơn trong việc định hình cuộc sống hàng ngày và các quyết định cuộc đời của họ;
– Về cơ bản họ tự cảm thấy ít gần gũi với Thiên Chúa;
– Có phần hoài nghi hơn về các niềm tin tôn giáo của họ;
– Giảm tin rằng Thiên Chúa là hữu thể đích thân để tâm đến cuộc sống của con người ngày nay;
– Về cơ bản giảm tin vào ngày phán xét khi đó Thiên Chúa sẽ thưởng một số người và phạt những người khác;
– Giảm tin vào phép lạ, sự hiện hữu của các thiên thần, và cuộc sống sau khi chết;
– Tin tưởng hơn thuyết luân hồi, thuật chiêm tinh, tâm linh học và bói toán;
– Giảm cam kết cá nhân sống cuộc sống vì Thiên Chúa;
– Cầu nguyện ít thường xuyên hơn;
– Giảm tham gia vào các nhóm trẻ tôn giáo;
– Ít thường xuyên tham dự Lớp học Chủ nhật/CCD, dự tĩnh tâm, dự hội nghị tôn giáo hoặc tập hợp hoặc cắm trại, hoặc dự một sứ vụ tôn giáo hoặc dự án phục vụ;
– Thường xuyên hơn cho biết rằng họ buồn chán trong giáo hội;
– Ít cho biết rằng cộng đoàn của họ giúp họ hiểu hoạt động tình dục và đạo đức tình dục riêng của họ (Smith, 2005, tr. 272-291).

Cuộc khảo sát cũng tường thuật rằng chỉ 19% thanh thiếu niên Công giáo Mỹ tham dự thánh lễ hàng tuần và 40% không bao giờ tham dự. Tóm lại, ánh sáng mà Nghiên cứu Quốc gia về Giới trẻ và Tôn giáo chiếu rọi về các thanh thiếu niên Công giáo thuộc nhóm người không biết hoặc không hiểu các giáo huấn cốt lõi của giáo hội của họ là gì và dường như không mấy quan tâm tới tôn giáo trong đó họ đã được sinh ra (Smith, tr. ≤194).
Cũng vậy, dù kém tính thực nghiệm hơn, các bài phê bình về giáo dục cao đẳng và đại học Công giáo đã cho thấy những kết quả cũng ảm đạm như thế từ những nỗ lực truyền đạt cho các sinh viên các chân lý của Tin mừng và giành được sự cam kết về hoạt động của giáo hội (Hendershott, 2009; Arthurs, 2008; Reilly, 2003). Chẳng hạn, một nghiên cứu năm 2003 phát hiện ra rằng tại các trường cao đẳng Công giáo, sự đồng thuận với giáo lý của Giáo hội về một loạt vấn đề, chẳng hạn như phá thai, tình dục trước hôn nhân và hôn nhân đồng giới, những suy giảm từ năm đầu đến năm chót (McMurtrie, tr. a. 38). Dường như cho dù những nỗ lực lịch sử của những thế hệ các linh mục, nữ tu và giáo dân tận tâm, những nỗ lực hiện nay của Giáo hội Công giáo ở Mỹ để cung cấp một nền giáo dục lành mạnh cả về thần học và khoa học đã thất bại. Liệu những thất bại này chỉ có ở Mỹ hay không thì rất đáng ngờ.

Sự Khôn ngoan của Nhà Nước với tư cách Nhà Giáo Dục hàng đầu
Như Giáo hoàng John XXIII đã chứng minh trong Pacem in Terris, công quyền, nghĩa là, những quyền lực quốc gia, nhận được quyền của họ từ Thiên chúa (a. 46), và phải tìm thấy sức mạnh bắt buộc của họ từ trật tự luân lý (a. 47), để sự hấp dẫn đầu tiên của nó không phải là sự sợ hình phạt hoặc sự hứa hẹn phần thưởng nhưng là lương tâm cá nhân (a. 48). Ngoài ra, mối quan tâm chính của chính quyền dân sự là bảo đảm rằng các quyền lợi cá nhân phải được nhìn nhận, tôn trọng, và am hợp với các quyền lợi khác, được bảo vệ và cổ vũ (a. 60). Hơn nữa, những nhà cầm quyền quốc gia phải gia tăng phúc lợi vật chất và tinh thần của công dân (a. 57), và đôi khi chính quyền dân sự phải chú ý hơn tới những thành viên thiếu khả năng bảo vệ quyền lợi của họ và khẳng định những đòi hỏi chính đáng của họ (a. 56).
Dưới ánh sáng của sự hướng dẫn do Giáo hoàng John XXIII đưa ra, quyền lãnh đạo hiện nay của những nhà cầm quyền quốc gia đối với giáo dục xem ra để làm cân bằng mối nguy hiểm nghiêm trọng đối với công chúng mà họ khẳng định phục vụ. Chắc chắn, nhà nước quan tâm tới việc toàn thể công dân được giáo dục. Nhà nước phải lo bảo đảm rằng giới trẻ kiến lập được những thái độ và thói quen cần thiết để chung sống hài hòa. Nhưng nhà nước cũng có quyền trả lời những câu hỏi chủ yếu và quan trọng nhất trong giáo dục, “Cái gì đáng biết?” và “Con người phải cố gắng trở nên cái gì và làm gì với cuộc sống của mình?”
Có vẻ như đối với những nhà cầm quyền quốc gia là để đưa ra những câu trả lời cho các vấn đề giáo dục nền tảng nhất này, và do đó, định hình và kiểm soát niềm tin và vũ trụ quan của giới trẻ, đe dọa quyền tự do hành đạo và các quyền của cha mẹ kiểm soát sự giáo dục của con cái của họ. Thế kỷ XX đã chứng kiến hai ví dụ đau lòng về việc nhà nước kiểm soát giáo dục tại Đức thời Đức Quốc Xã và tại Nga thời Sô Viết nơi trường học trở thành công cụ rõ ràng để nhà nước đàn áp tôn giáo.
Dù những ví dụ này là cực đoan, khả năng để nhà nước chuyên chế kiểm soát giáo dục là một thực tại toàn cầu. Tinh tế hơn, và có lẽ nguy hiểm hơn vì nó được lẳng lặng áp đặt bởi các uỷ ban và các quan chức khó hiểu của nhà nước, là loại chương trình học mới được áp đặt vài năm trước đây tại Quebec Công giáo đáng tin cậy xưa kia. Kể từ năm 2008, một chương trình tôn giáo mới, có tựa là “Đạo đức và Văn hoá Tôn giáo” phải được dạy trong tất cả các trường, công, tư và tôn giáo (Benson, 2011). Mục đích được vin vào của giáo trình đó là “làm cho học sinh ý thức về các giáo lý của rất nhiều niềm tin tôn giáo của Quebec–những tôn giáo lớn, cộng với những thần thoại bản xứ và cả các niềm tin Wicca–nhằm giúp các học sinh dễ dàng phát triển tâm linh ngõ hầu thúc đẩy sự hoàn thành ý nguyện riêng.” (Kay, 2011)
Gần đây, tại bang California của Mỹ Cơ quan Lập pháp đã mạnh mẽ thông qua và thống đốc hăng hái phê chuẩn Đạo luật Giáo dục FAIR (SB 48). Đạo luật Giáo dục FAIR là luật chỉ dẫn thứ bảy về giới tính nhằm dạy học sinh trong bang xem đồng tính luyến ái, chuyển đổi giới tính (phẫu thuật để chuyển đổi giới tính), và lưỡng tính là tốt và tự nhiên. Trong số các điều khoản của dự luật là sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy phải tích cực cổ vũ “người Mỹ đồng dục nữ, đồng dục nam, lưỡng tính, và chuyển giới” như những mẫu gương và trẻ em từ sáu tuổi sẽ được dạy hâm mộ tình trạng đồng tính luyến ái, “hôn nhân” đồng giới, lưỡng tính, và chuyển đổi giới tính (Badash, 2011). Hai chương trình áp đặt của bang, các khóa học từ đó trong cả hai trường hợp thì học sinh cũng như giáo viên không được phép lựa chọn, là những ví dụ của sự tin tưởng gia tăng vào các nhà cầm quyền quốc gia để định hướng sự giáo dục giới trẻ. Như vậy, giáo dục học đường không chỉ bị đe dọa bởi thế thống trị của thuyết duy nghiệm, như được Maritain đưa ra bảy mươi năm trước, nhưng còn bởi ý thức hệ trần tục hiện nay của nhà nước.

Những câu hỏi kết luận
Sự thẩm tra về tư tưởng giáo dục này được diễn tả trong Pacem in Terris nhằm nêu ra hai câu hỏi, Thứ nhất, liệu Giáo hội sẽ đem lại sự lãnh đạo cho người Công giáo và những người có tín ngưỡng khác để tái khẳng định quyền và trách nhiệm chính yếu của cha mẹ là giám sát việc giáo dục con cái của họ không? Nghĩa là, liệu Giáo hội sẽ hoạt động để hạn chế vai trò của nhà nước trong việc tạo điều kiện dễ dàng cho các nỗ lực của cha mẹ và những người đại diện được chọn của họ nhằm giáo dục giới trẻ không?
Thứ hai, liệu những lời kêu gọi mới đây của Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI về loan báo Tin Mừng sẽ bị giảm giá trị do tình trạng giáo dục Công giáo yếu kém không? Phải chăng sứ mệnh giáo dục của Giáo hội đã giảm bớt, đã trở nên không hiệu quả, và đã bị coi thường là làm suy yếu khả năng của người Công giáo đáp lại lời kêu gọi của các giáo hoàng là loan truyền Tin mừng của các Phúc Âm? Phải chăng giáo dục Công giáo sẽ không chuẩn bị đủ “đội quân” để hoàn thành sứ mệnh loan báo Tin Mừng này?

References

Aquinas, St. Thomas (1274) SummaTheologica 1.16.1.
Arthur, James (2008) “Faith and Secular¬ization in Religious Colleges and Uni¬versities”. Journal of Beliefs. Vol. 29, issue 2. pp. 197-202.
David Badash (2011) SB 48: California’s FAIR Education Act Is This Year’s Prop 8. Is It DOA? In Bigotry Watch, News, Pol¬itics, Religion. September 2, 2011.
Benson, Iain. What can be Learned from the Experiences ofVarious Societies in Dealing with their Principal Trouble Spots? In Universal Rights in a World of Diversity – The Case of Religions Freedom, XVII Plenary Session of the Pontifical Academy of Social Sciences, Acta 17, eds M.A. Glendon and H. Zacher, Vatican City, 2012, pp. 253-290.
Eberling, E.R. Massachusetts Education Laws of 1642,1647, and 1648, in Historical Dictionary of American Education, ed. Richard J. Altenbaugh. Greenwood Press, 1999.
Hendershott, A. (2009) Status Envy: The Politics of Catholic Higher Education. New Brunswick, NJ:Transaction Press.
Glenn, C.L. (2011) Disestablishing Our Secular Schools in First Things. January, 2012, pp. 39-43.
Kay, B. (2011) The court will decide if Quebec allows a choice in religious education. Accesses January 30,2012. Available at http://full- comment.nationalpost.com/2011/05/18 /barbara-kay-court-will-decide-if-que- bec-allows-a-choice-in-religious-edu- cation/
Maritain, Jacques (1943) Education at the Crossroads. New Haven, CN:Yale Uni¬versity Press.
McMurtrie, B. (2003) Catholic Colleges Fail to Impart Church’s Teaching, Study’s Author Says. The Chronicle of Higher Ed¬ucation 48 (March 21,2003).
Pakaluk, Michael (2011) What every well- educated Catholic should know. The Boston Pilot, June 3, p. 14.
Reilly, Patrick J. (2003) Are Catholic Col¬leges Leading Students Astray? The Catholic World Report, March 2003: 38- 46.
Ryan, K. and Cooper, J.M. (2013) Those Who Can, Teach. Belmont, CA:Widsworth Cengage Learning.
Ryan, K. and Bohlin, K.E. (1999) Building Character in Schools. San Francisco, CA: Jossey Bass.
Smith, C. with Denton, M.L. (2005) Soul Searching: the Religious and Spiritual Lives of American Teenagers. Oxford, UK: Oxford Press.

LỜI CẢM ƠN THÁNH LỄ AN TÁNG BÀ CỐ TÊRÊSA PHẠM THỊ HƯỜNG

LỜI CẢM ƠN
THÁNH LỄ AN TÁNG BÀ CỐ TÊRÊSA PHẠM THỊ HƯỜNG
NGÀY 7/1/2015 – GIÁO XỨ BÌNH AN

Trọng kính Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ – nguyên giám mục giáo phận Phú Cường – chủ tế Thánh Lễ.
Trọng kính Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến – nguyên giám mục giáo phận Phát Diệm.
Kính thưa cha Tổng đại diện, Đức ông, quý cha hạt trưởng và quý cha trong và ngoài tổng giáo phận Sàigòn.
Kính thưa cha Giám tỉnh – quý cha giám đốc cộng thể, quý cha và quý thầy tỉnh dòng Salêdiêng Việt Nam.
Kính thưa Sơ tổng phụ trách cùng quý sơ thuộc hội dòng Mến thánh giá Chợ quán.
Kính thưa quý bề trên, quý tu sỹ nam nữ và toàn thể cộng đoàn đang hiện diện trong Thánh lễ hôm nay.

Con xin thay mặt cho ông cố và tất cả các em con xin được nói lên tâm tình cảm tạ và tri ân đến quý đức cha, quý cha, quý tu sỹ và toàn thể cộng đoàn.
Trước hết, chúng con xin chân thành ghi ơn Đức Tổng giám mục Phaolô – tổng giám mục giáo phận Sài gòn. Dù bận rộn với công việc mục vụ của tổng giáo phận và nhất là trong những ngày đang chuẩn bị đón tiếp Đức Hồng y Bộ trưởng Bộ Loan báo Tin mừng đến thăm Việt Nam, nhưng Đức Tổng vẫn ưu ái dành cho gia đình chúng con những lời hỏi thăm và động viên chúng con với tấm lòng người cha chung đầy yêu thương.
Kế đến, chúng con xin hết lòng tri ân Đức cha Giuse – giám mục giáo phận Phan Thiết, Đức cha Giuse – Giám mục giáo phận Phú Cường, Đức cha Giuse – chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, dù bận rộn mục vụ và đường xá xa xôi, quý đức cha đã đến viếng linh cửu, cầu nguyện cho mẹ chúng con và động viên, chia sẻ với gia đình chúng con. Chúng con cũng ghi ơn Đức cha Antôn – giám mục Đàlạt đã gửi lời thăm hỏi và động viên gia đình chúng con.
Đặc biệt, chúng con vô cùng biết ơn Đức cha Phêrô và Đức cha Giuse, với tấm lòng yêu thương của người mục tử, người cha và người thầy, quý Đức cha đã đến hiệp dâng Thánh lễ an táng cầu nguyện và tiễn biệt mẹ chúng con hôm nay. Tấm lòng mục tử bao la của quý Đức cha không chỉ đem lại cho gia đình chúng con sự an ủi mà còn để lại cho chúng con bài học yêu thương phục vụ mà chúng con sẽ tiếp tục trong sứ vụ của chúng con.
Chúng con xin ghi ơn cha Tổng Đại diện, cha chưởng ấn tổng giáo phận Sàigòn với tấm lòng ưu ái đã thay mặt Đức Tổng tới thăm hỏi gia đình, cầu nguyện cho mẹ chúng con và hôm nay hiện diện để tiếp tục cầu nguyện.
Chúng con xin hết lòng cảm tạ cha Giám tỉnh, quý cha và quý thầy, cựu học viên, cộng tác viên thuộc tỉnh Dòng Salêdiêng Việt Nam cùng sơ tổng phụ trách và quý sơ hội dòng Mến thánh giá Chợ Quán, gia đình chúng con thật hạnh phúc vì bầu khí gia đình của hai hội dòng dành cho gia đình chúng con trong những tháng năm đã qua; đặc biệt trong những ngày lễ tang mẹ chúng con. Bầu khí yêu thương của đại gia đình này đã đem lại cho chúng con nguồn nâng đỡ tinh thần cho gia đình chúng con tiếp tục phục vụ Giáo Hội. Đặc biệt, chúng con xin tri ân cha Gioan – nguyên giám tỉnh, đã đồng hành cách đặc biệt với gia đình chúng con nhiều năm qua và hôm nay đã chia sẻ trong Thánh Lễ an táng Mẹ chúng con hôm nay.
Trong tâm tình tri ân, chúng con hết lòng biết ơn Đức ông Phanxicô Borgia, quý cha hạt trưởng, quý cha bề trên, quý cha trong ngoài giáo phận và trong các hội dòng, vì yêu thương đã hiện diện hiệp dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho mẹ chúng con và chia sẻ với gia đình chúng con; Đặc biệt quý cha Ban Biên Tập báo Bài giảng Chúa nhật, khóa 2 Đại chủng viện Sàigòn, quý cha Hạt Xóm Mới.
Chúng con xin chân thành cảm ơn quý tu sỹ nam nữ các hội dòng đã viếng thăm, chia sẻ và tham dự thánh lễ cầu nguyện cho mẹ chúng con. Đặc biệt quý hội dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm; MTG Gò Vấp, Thủ Thiêm, Thủ Đức, Đà Lạt, Bắc Hải, Tân Việt, Tân Lập; Đaminh Bà Rịa, Phú Cường; Đan viện Cát Minh Sàigòn; Dòng con Đức Mẹ Phù hộ; Dòng Mân Côi Chí Hòa; Dòng Thánh Phaolo; Dòng Nữ tỳ Thánh Thể; Dòng Đức Bà, Tu đoàn Thiên Phúc, Dòng Lao động Thừa sai; Dòng Thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm, quý sơ trong ban điều hành và quý tu sỹ sinh viên trong các học viện Liên dòng Phaolo Nguyễn Văn Bình, học viện liên dòng MTG, học viện Thánh Tôma.
Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm ơn các công ty, đoàn thể, thông gia và thân hữu xa gần đã thăm viếng, chia sẻ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho mẹ chúng tôi; đặc biệt, công ty Winspeed Đại Tiến Thành, Song Hòa, Vĩnh Phúc, Sumitex – Dương Long Việt Tiến, Nhất Việt, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện Chấn Thương chỉnh hình; các cộng đoàn giáo xứ Rạch Lợp (Trà Vinh), Tân Thông (Phú Cường), Trung Bắc, Lộc Hưng, Tân Châu, Tam Hải, Cao Thái, Xuân Hiệp, Bến Cát, Bình Minh, Bình Chánh, Bắc Hà, Châu Nam; Ủy ban giáo dục Công Giáo Việt Nam, Giáo chức Công Giáo Sàigòn; Liên đoàn Thanh Sinh Công Sàigòn, Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Andre Phú Yên, Liên hiệp Di dân, Hướng Đạo Sinh Âu Lạc, các đoàn thể hạt Xóm Mới, Ban Mỹ Thuật Đaminh và các nhạc sỹ Lửa Hồng.
Một cách đặc biệt, gia đình chúng con hết lòng ghi ơn Cha quản hạt – chánh xứ Bình An, cha phụ tá, hội đồng mục vụ, khu họ thánh Gioan Baotixita, các khu họ, các đoàn thể và toàn thể cộng đoàn giáo xứ đã đồng hành với gia đình chúng con từ 60 năm nay; và trong những ngày này không chỉ thăm viếng, chia sẻ, cầu nguyện còn thương tạo mọi điều kiện tốt đẹp và giúp đỡ chúng con tổ chức tang lễ cho mẹ chúng con.
Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn chính quyền địa phương đã tạo mọi điều kiện cho chúng tôi trong những ngày tang lễ.
Trong lúc tổ chức tang lễ, chúng con khó có thể tránh những thiếu sót. Kính xin mọi người niệm tình tha thứ cho chúng con.
Một lần nữa chúng con xin chân thành cảm ơn Đức Tổng Giám mục, quý đức cha, đức ông, quý cha, quý tu sỹ nam nữ và tất cả mọi người.
Gia đình chúng con xin đồng bái tạ.
Thay mặt gia đình
Lm. Thomas Ap. Trần Quốc Tuấn SDB

Ánh Sáng – lễ Hiển Linh

Ánh sáng

Lễ hiển linh đã có nguồn gốc khá sớm trong lịch sử giáo hội. Ban đầu Tây phương không mừng thánh lễ này, cũng không mừng lễ Giáng Sinh, chỉ mừng Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Sau này, Giáo hội tây phương mừng lễ giáng sinh để phản ứng lại ngày lễ mừng thần mặt trời trong tập tục dân gian. Dần dần, giáo hội tây phương mừng lễ hiển linh cùng giáo hội Đông phương nhưng thêm vào việc Ba Vua.
Qua dòng thời gian, trọng tâm ý hướng của việc mừng lễ hôm nay vẫn không thay đổi. Đó là, Thiên Chúa yêu thương tỏ mình cho nhân loại không trừ ai; nhưng thái độ đón nhận hay không sẽ luôn tùy thuộc vào chính bản thân mỗi người chúng ta. Bản văn Tin mừng ngày lễ hôm nay gợi mở cho chúng ta những suy tư về hành trình đón nhận tình yêu của Thiên Chúa qua từng mỗi khuôn mặt của các nhân vật.
1. Thái độ của những nhân vật trong Tin Mừng
Trước việc dò hỏi của các nhà chiêm tinh, có nhiều thái độ phản ứng khác nhau của những cư dân Giêrusalem.
Trước tiên, Vua Hêrôđê đã hoảng hốt trước sự thăm hỏi của họ. Ông lo sợ ngai vàng của mình sắp mất vì một tân vương nào đó. Sự lo sợ của ông đã khiến ông tìm cách triệt hạ hài nhi hầu có thể giữ vững ngai vàng của mình.
Kế đến, dân thành Giêrusalem cũng hoảng hốt; nhưng sự hoảng hốt chỉ là vì tò mò. Họ cũng muốn góp thêm chút lời bàn cùng với thiên hạ về một Đấng nào đó vừa xuất hiện. Thế nhưng, chỉ chút ít thời gian, họ mau chóng trở về với cuộc sống cơm áo gạo tiền thường ngày của họ và đã chẳng bao giờ lên đường tìm gặp Ngài.
Các Thượng tế, Ký lục khi được vua Hêrôđê hỏi đến đã trích dẫn Thánh Kinh một cách chính xác. Họ biết, họ hiểu điều Thánh Kinh đã nói, nhưng họ bằng lòng với những kiến thức đó nên đã ngồi yên và chẳng màng việc tìm kiếm Ngài.
Trái lại, các đạo sỹ là những người xa lạ với phong tục, Thánh kinh, đền thờ, và tôn giáo Do Thái. Có thể họ đã nghe những người Dothái kiều ở nước ngoài nói với nhau về Đấng đã hứa và Ngài sẽ đến. Dù những gì họ nghe rất xa lạ với họ, nhưng với con tim khao khát kiếm tìm, họ đã tìm hiểu, và gặp gỡ được lời mời gọi ngay trong chính công việc đời thường của họ. Quan trong hơn, họ đã dám từ bỏ tất cả để lên đường kiếm tìm Ngài, để tiến dâng lễ vật. Tin mừng thuật lại, họ đã được loan báo để trở về bằng một lối khác. Đây chính là khuôn mẫu của những cuộc kiếm tìm và gặp gỡ Thiên Chúa.
2. Chúa Kitô vẫn đang đến, đang tỏ mình. Thái độ của tôi hôm nay.
Có lẽ, với chúng ta hôm nay, khi nhận định về thái độ của từng mỗi nhân vật trong câu chuyện Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng đang được mời gọi để khám phá lại chính thái độ của mỗi chúng ta trước lời ngỏ của Ngài.
Trước tiên, giống Hêrôđê, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi riêng tư của bản thân, nhẫn tâm chà đạp lên người khác để bảo vệ quyền lợi của mình. Chúng ta có thể kết án Hêrôđê tàn ác, sẵn sàng giết hại bao trẻ thơ vô tội chỉ vì lợi ích của riêng ông. Thực tế ngày hôm nay, cứ nhìn con số thống kê các vụ phá thai, chúng ta cũng sẽ không khỏi giật mình về sự tàn bạo của những Hêrôđê mới dưới dáng vẻ các bà mẹ. Chúng ta cũng không khỏi giật mình về hành vi bạo tàn của nhiều nhà cầm quyền để bảo vệ lợi ích cá nhân hơn lợi ích chung. Chúng ta cũng không thể lờ đi thái độ ghen ghét, bôi nhọ, lăng nhục… của chúng ta với anh chị em để bảo vệ chính mình. Nói cách khác, chính chúng ta đang bóp chết Chúa Kitô trong cuộc đời mình; chính chúng ta đang là những Hêrôđê dưới những dáng vẻ mới của thế giới hiện đại này.
Kế đến, không khác với dân cư Giêrusalem, có lẽ hành trình theo Chúa của chúng ta cũng chỉ háo hức lúc ban đầu mà không đi vào trong sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài. Sau những háo hức đó, chúng ta lại tiếp tục để cho những lo toan cuộc đời trần thế kéo ghì chúng ta lại, thay vì tiếp tục hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Ngài. Thái độ này, dường như đang là hệ quả của một kiểu sống như những thượng tế và ký lục ngày xưa. Chúng ta bằng lòng với một số kiến thức giáo lý đã học ê a từ khi còn thơ bé. Chúng ta có thể biết nhiều điều về giáo lý, nhưng chúng ta chưa bao giờ gặp gỡ Ngài. Chúng ta cũng không cảm thấy nhu cầu thực sự cần tìm gặp Ngài trong đời sống chúng ta. Con người thời đại đang sống với cái đầu to ra và con tim nhỏ lại.

Gương mẫu của các vị đạo sỹ năm xưa đang gợi mở cho mỗi chúng ta một con đường mới của hành trình đức tin. Thiên Chúa vẫn đang ngỏ lời với mỗi chúng ta ngay trong các dấu chỉ đời thường của mỗi mình. Chính khi sống hết trách nhiệm với sứ vụ, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được các dấu chỉ Ngài dành cho chúng ta. Con đường học biết và lắng nghe Lời Chúa rất cần thiết nhưng chưa đủ. Con đường này chỉ hoàn tất khi chúng ta dám chấp nhận khó nhọc lên đường để tìm kiếm và gặp gỡ Ngài. Đồng thời, biết quảng đại dâng hiến cho Chúa những hoa trái đích thực của đời sống chúng ta nữa. Con đường này không kéo chúng ta xa rời thực tế cuộc sống như nhiều người lầm tưởng, nhưng đó là một con đường sống mới, con đường trở về với thực tế cuộc sống bằng một lối đi khác, lối đi của Thần Khí và Ánh sáng của Ngài.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa vẫn đang tiếp tục tỏ mình cho chúng con dưới những dáng vẻ rất gần gũi với chúng con. Nhưng chúng con chưa thể nhận ra Ngài vì chúng con còn có quá nhiều những bám víu tầm thường. Cũng nhiều khi, chúng con cũng đã nhận ra Chúa, nhưng chúng con chưa dám từ bỏ để lên đường kiếm tìm và gặp gỡ Chúa. Chúng con xin lỗi Chúa về tất cả những yếu đuối của chúng con. Xin Ánh sáng của Chúa tiếp tục soi dẫn hành trình mỗi chúng con đi để chúng con có thể gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Amen.

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Cùng với Mẹ Giáo Hội, chúng ta bước vào một năm mới trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa về thời gian được ban tặng cho chúng ta; đồng thời, bước vào năm mới với ngày lễ trọng mừng kinh Mẹ Maria – Mẹ Thiên Chúa. Hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới, an bình cho mỗi cõi lòng của từng mỗi người nữa. Thế nhưng, việc cầu nguyện này sẽ thiếu đi chiều kích hiện thực của đời sống nếu như mỗi chúng ta chưa thực sự dấn thân. Cùng với việc lắng nghe, suy niệm về các bản văn Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng khám phá một con đường thực hành qua sứ điệp của Đức Thánh Cha trong ngày hôm nay: «Giáo dục công lý và hòa bình cho giới trẻ».
1. Hiện diện như cung cách giáo dục công lý và hòa bình
Bản văn bài đọc một trích từ sách Dân Số mở ra cho chúng ta một nhãn giới mới về con đường giáo dục công lý và hòa bình: con đường của sự hiện diện. Đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa với chúng ta. Thiên Chúa nhắc nhở Môsê trong tư cách nhà lãnh đạo cộng đoàn, để ông chúc lành và giáo huấn cho cộng đoàn ý thức về điều này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26).
Truyền thống cựu ước vẫn gán cho Thiên Chúa một dung mạo. Dung mạo đó có thể là một Thiên Chúa “ẩn mình” khi nổi giận. Dung mạo đó là dung mạo của một Thiên Chúa “tươi nét mặt”, “nhìn đến”, “ghé mắt nhìn” dân Ngài khi Ngài yêu thương. Cũng trong truyền thống này, các bản văn Thánh Vịnh, bày tỏ nỗi khát khao được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa (Tv 26; 42; 104), nhưng chỉ những con người “chính trực” mới có thể thỏa mãn nỗi ước mong này (Tv 10). Nói cách khác, ngay từ trong truyền thống của cựu ước, dân Chúa đã ý thức rất rõ rằng, chính sự mong mỏi hiện diện gần gũi của Thiên Chúa với dân Ngài đã giúp họ đi vào con đường của chính trực, của công lý và hòa bình. Bổn phận của Môsê – trong tư cách nhà lãnh đạo – phải giáo dục cho dân sự khát khao và sống kinh nghiệm sự hiện diện này của Thiên Chúa.
Bởi thế, lời dặn dò của này vẫn còn nguyên giá trị cho thời đại chúng ta. Các nhà lãnh đạo trên mọi bình diện: quốc tế, quốc gia, tôn giáo, trường học, gia đình… vẫn đang được mời gọi tiếp tục không chỉ là giáo dục bằng lời, nhưng còn bằng cả một thái độ dấn thân giúp người trẻ cảm nghiệm sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa. Chính sự cảm nghiệm này là con đường giáo dục bằng hành động cho sự dấn thân cho công lý và hòa bình cho người trẻ. Đức Thánh Cha mời gọi: «Cần phải lắng nghe các thế hệ trẻ và trợ giúp họ thực hiện công ích và khẳng định một trật tự xã hội công bằng và hòa bình nơi mà các quyền và các tự do căn bản của con người có thể được diễn tả cách trọn vẹn và tự do. Bởi đó, các thế hệ hiện nay có bổn phận đặt các thế hệ tương lai trong những điều kiện diễn tả, cách có trách nhiệm và hoàn toàn tự do, sự cấp bách của một thế giới mới. Giáo Hội đón nhận các bạn trẻ và những tha thiết của họ như là dấu hiệu của một mùa xuân tràn đầy hứa hẹn và Giáo Hội giới thiệu Chúa Giêsu cho họ như là khuôn mẫu tình yêu làm nên vũ trụ mới.”
2. Ý thức vai trò người con tự do: con đường công lý và hòa bình
Thông thường, chúng ta vẫn cứ nghĩ rằng cần phải đòi công lý và hòa bình khi chúng ta thiếu nó. Suy nghĩ này không sai, nhưng vẫn chưa đủ! Chỉ khi chúng ta ý thức mình là người con của tự do, chúng ta mới ý thức đủ cho sự dấn thân vào con đường công lý và hòa bình. Bản văn bài đọc hai trong thư Galát gợi nhắc cho chúng ta tâm tình này. Nếu như trong cựu ước, Dân Chúa vẫn tiếp tục khát khao, mà vẫn chưa tìm ra cho mình một giải pháp, thì đã tới thời khắc mới “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh ra làm con một người phụ nữ, và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Ga 4, 4-5).
Thiên Chúa chọn lựa hiện diện và ở với con người để nâng dậy phẩm giá tự do của con người. Sống kinh nghiệm ở với Ngài là sống kinh nghiệm của sự hiệp thông trong Ba Ngôi. Người con của tự do sống hiệp thông với Chúa Giêsu, để trong Thần Khí của Ngài, bật lên tiếng “Abba, Cha ơi!” (Ga 4, 6). Kinh nghiệm của hiệp thông này dẫn chúng ta đi vào trong huyền nhiệm của người tự do. Chính ý thức trọn vẹn về sự tự do được trao ban, mỗi chúng ta mới dấn thân đủ cho một con đường công lý và hòa bình đích thực.
3. Hiệp thông trong khuôn mẫu gia đình Thánh: lớn lên trong công lý và hòa bình
Kinh nghiệm về con người tự do chỉ có trong sự hiệp thông với Thiên Chúa; nhưng kinh nghiệm này lại chỉ có thể cảm nghiệm được bầu khí của gia đình. Con Chúa đã đến để ở với con người, để hiệp thông với con người trong khung cảnh của một gia đình. Bởi thế, con đường dễ nhất để khám phá huyền nhiệm tự do ở chính nơi bầu khí của gia đình.
Những người mục đồng nghèo đã khám phá ra huyền nhiệm về sự tự do của mình ngay khi họ đến với gia đình Thánh. Họ cảm nghiệm được thế nào là công lý và hòa bình trong bầu khí thánh thiêng của gia đình. Họ đã bắt đầu gióng lên tiếng nói của công lý và hòa bình trong khả năng của họ. “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo” (Lc 2, 20).
Bầu khí thánh thiêng của gia đình thánh xưa vẫn đang được tiếp tục được diễn tả trong bầu khí của mọi gia đình đương đại. Thế nhưng, xem ra vẫn còn có nhiều trục trặc cho những giá trị của gia đình hiện đại của chúng ta. Quay trở lại để chiêm ngắm, để hiệp thông theo khuôn mẫu gia đình Thánh chính là tạo điều kiện cho mỗi người lớn lên trong công lý và hòa bình.

Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng thật tuyệt vời vì Mẹ cũng là Mẹ mỗi chúng ta. Đi vào trong mối liên kết với Mẹ cũng chính là đi vào trong con đường của hiệp thông với Chúa Giêsu trong tư cách của những người con của tự do. Chắc hẳn, khi mỗi chúng ta đạt tới giá trị đích thực của người con của Thiên Chúa, người con của Mẹ, mỗi chúng ta sẽ không ngần ngại để sống giá trị của công lý và hòa bình ngay trong đời sống của chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của mỗi chúng con. Xin dắt chúng con đi vào trong huyền nhiệm của những người con của tự do và dấn thân cho một nền công lý và hòa bình trong mọi hoàn cảnh sống của chúng con. Amen.

Huyền nhiệm Thánh Gia

Huyền nhiệm Thánh Gia

Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa thay đổi quá mau chóng. Chính sự thay đổi này đã khiến nhiều giá trị cốt lõi bị đổi thay. Gia đình ngày nay cũng bị chi phối bởi những thay đổi về giá trị: vấn đề ly dị, phá thai, trẻ lang thang… ngày một gia tăng. Trong một bối cảnh như thế, Lễ Thánh Gia chính là lời mời gọi cho mỗi chúng ta thẩm định lại đời sống gia đình của mình.
1. Sự vâng phục lề luật – sự hiệp thông với Thiên Chúa
Luca nói đến luật 5 lần trong trình thuật Tin Mừng ngày lễ Thánh Gia hôm nay. Thực ra, Thánh Luca chỉ trình thuật một sự vâng phục rất thường tình trong đời sống đức tin của người Do Thái: đem con trẻ lên Giêrusalem theo luật thanh tẩy và dâng lễ vật. Tuy nhiên, sự kiện Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng Hài Nhi Giêsu vào đền thờ không chỉ dừng lại chỗ vâng phục lề luật. Dường như các ngài còn làm công việc khác: để cho mọi người tiếp cận con trẻ Giêsu. Chính bởi đó mà chúng ta đang cảm nghiệm một cách sâu thẳm hơn về sự kiện này. Đó chính là Mầu nhiệm Nhập thể đã đi đến độ tự hạ tột cùng. Hài nhi Giêsu đã trở nên nhỏ bé và yếu đuối, lệ thuộc con người đến độ người ta muốn làm gì cho trẻ Giêsu thì làm.
Không chỉ thế! Đọc lại một vài con số liên quan đến mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể chúng ta còn cảm nhận một tâm tình khác. Trước tiên, con số từ khi truyền tin Dacaria đến khi truyền tin cho Mẹ Maria là 180 ngày (6 tháng); kế đến, từ lúc truyền tin cho Mẹ Maria đến ngày lễ Giáng Sinh là 270 ngày (9 tháng); từ Lễ Noel đến lễ dâng hiến trong đền thờ là 40 ngày. Tổng cộng 490 ngày (70 tuần). Theo Daniel 9, 21-24: sau 70 tuần năm, Israel phải được thanh tẩy và Gierusalem sẽ được hiến thánh. Bởi thế, việc dâng Hài Nhi Giêsu vào đền thánh không chỉ đơn thuần là sự vâng phục lề luật mà còn là sự khai mở vinh quang của Giavê nơi đền thánh. Một cuộc hiệp thông với Thiên Chúa và vinh quang của Ngài khởi từ sự vâng phục lề luật.
2. Sự can đảm của cha mẹ – trung tín với Thần khí
Việc dâng trẻ em vào đền thờ là chuyện thường tình của lề luật Do thái giáo, nhưng việc để cho các cụ cao niên bồng ẵm trẻ trong cuộc gặp gỡ tại đền thờ là việc hiếm thấy. Tuy thế, chúng ta không thể phủ nhận, Thiên Chúa có một con đường riêng của Ngài. Ngang qua cuộc gặp gỡ với những vị cao niên của dân Chúa, tiếng của Thần Khí đã cất lên. “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Tiếng nói của Thần Khí nơi Simeon và Anna đến cho gia đình đã làm đảo lộn suy nghĩ thường tình của cha mẹ đối với con cái. Không cha mẹ nào có thể vui khi có ai đó nói những lời gây đau đớn như thế về con cái của mình. Bởi lẽ, không cha mẹ nào lại hy vọng, mong chờ con cái mình lớn lên trong tình trạng như thế. Thế nhưng, chúng ta chỉ đọc thấy một thái độ mà Luca trình thuật: “Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người” (Lc 2,33). Đón nhận tiếng nói của Thần Khí về con cái và trung tín với Thần Khí chỉ có thể được bằng con đường của lắng nghe với tất cả sự can đảm.
3. Giáo dục con cái – sự tế nhị của tình yêu đối với Đức Giêsu
Tiếp tục việc dâng Hài Nhi vào đền thờ là chuỗi ngày trẻ Giêsu lớn lên một cách bình dị trong một gia đình lao động nghèo. So với Gioan Tẩy Giả, trẻ Gioan lớn lên trong sự phù trợ của Thiên Chúa (Lc 1, 66); còn trẻ Giêsu lớn lên “thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2, 40). Dù thế, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của cha mẹ của trẻ Giêsu trong tiến trình phát triển trong tư cách một con người.
Đức Maria ý thức rất rõ vai trò của các bà mẹ là dạy dỗ con cái. Mẹ đã dạy con trẻ bằng thái độ, bằng đời sống hơn là bằng lời nói. Mẹ yên lặng suy gẫm tất cả về những biến cố trong đời con trẻ trong lòng Mẹ (Lc 2, 51).
Cách trình thuật của Luca về vấn đề này có thể làm cho ai đó nghĩ tới sự thiếu nhiệt thành và năng động trong vai trò của cha mẹ nơi Mẹ Maria. Không hề! Trái lại, chúng ta cần thinh lặng đủ để có thể khám phá ra sự tế nhị của tình yêu mà Mẹ dành cho Chúa Giêsu con Mẹ trong tiến trình đào luyện. Đó là sự cần thiết vô cùng trong mọi tiến trình giáo dục. Chỉ khi những người cha mẹ biết chiêm ngắm con mình với tất cả tình yêu, họ mới có thể khám phá ra huyền nhiệm sâu thẳm trong ơn gọi và sứ vụ của con cái mình để đồng hành. Đó mới chính là tiến trình đào luyện thực sự.

Chiêm ngắm huyền nhiệm tuyệt vời của Thánh Gia Thất, chúng ta được mời gọi không chỉ dừng lại ở mức độ nhìn xem mà được mời gọi cho một thái độ dấn thân. Đó là thái độ vâng phục Thánh ý Chúa đã và đang dành cho gia đình mình. Con đường của trung tín với lề luật sẽ khai mở cho mỗi chúng ta cảm nghiệm đầy thử thách này. Kế đến, chúng ta được mời gọi can đảm đối diện với những sự thật về con cái và gia đình mình. Mỗi biến cố lớn nhỏ đang xảy ra với gia đình luôn là những lời mời gọi cho những dự án lớn từ phía Thiên Chúa. Chính khi dám đối diện với những lời mời như thế, cha mẹ mới có thể sống sự tế nhị với tình yêu dành cho con cái mình trong giáo dục chúng.

LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ: NGUỐN GỐC, SỰ PHÁT TRIỂN

LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ: NGUỐN GỐC, SỰ PHÁT TRIỂN
Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ

Tân Phúc Âm hóa đời sống cộng đoàn mời gọi chúng ta khám phá lại vai trò của cả hai: nhà lãnh đạo và các thành viên. Trong phạm vi bài viết này, xin được chia sẻ một số khám phá của Khoa học Lãnh đạo về Lãnh đạo phục vụ như một góp phần nho nhỏ cho các nhà lãnh đạo mục vụ trong việc cùng nhau tân phúc âm hóa đời sống cộng đoàn.

NGUỒN GỐC CỦA LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ
Theo Greenleaf (1977), các nhà lãnh đạo phục vụ là những người đặt những nhu cầu, nguyện vọng, và quyền lợi của người khác lên trên lợi ích của họ. Sự chọn lựa có cân nhắc là để phục vụ những người khác. Trên thực tế, động cơ lãnh đạo của nhà lãnh đạo phục vụ trước hết là để phục vụ, trái ngược với việc lãnh đạo (Greenleaf – 1977). Hơn nữa, nhà lãnh đạo phục vụ tìm kiếm sự biến đổi của những người theo họ để được khỏe hơn, khôn ngoan hơn, tự do hơn, độc lập hơn, và là chính họ hơn để trở thành những nhà phục vụ” (Greenleaf, 1977, tr.13-14)
Greenleaf (1977) giải nghĩa quan điểm về lãnh đạo phục vụ và giới thiệu vào bối cảnh của tổ chức. Điều thú vị là quan điểm của ông đạt tới một mức độ nhất định, có một số nét tương đồng với phong cách lãnh đạo biến chuyển của Burn (1978). Greenleaf (1977, tr.13) khẳng định rằng: “Nhà lãnh đạo phục vụ trước tiên là một người phục vụ….” Nó bắt nguồn từ cảm nhận tự nhiên là người muốn phục vụ, trước tiên là để phục vụ. Sự chọn lựa có ý thức mang lại cho họ niềm khao khát để lãnh đạo…. Sự khác biệt dễ nhận thấy là được người phục vụ quan tâm – và trước hết phải chắc chắn rằng nhu cầu ưu tiên cao nhất của người khác cần được phục vụ.
Thực ra, chính Chúa Giêsu mới là người đầu tiên đã dạy khái niệm về lãnh đạo phục vụ. Kinh thánh đã chứng minh rằng cách đây hơn hai ngàn năm, con người đã được dạy và thực hành như một nhà lãnh đạo phục vụ. Thực tế này đã phản ánh được cuộc sống của các vị vua cổ đại cách đậy hơn 1000 năm. Nair (1994, tr.59) đã khẳng định rằng tầm quan trọng của việc phục vụ để lãnh đạo đã được thừa nhận và luyện tập trên 1000 năm.

CHÚA GIÊSU – HIÌNH TƯỢNG CỦA NHÀ LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ
Trong tất cả dữ liệu kinh thánh về lãnh đạo phục vụ, có lẽ những đoạn Chúa Giêsu giảng dạy cho các môn đệ được ghi nhận lại trong Kinh thánh (Mc10) là phần có tác động mạnh nhất.
Trong suốt hành trình sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã giảng cho các môn đệ Ngài sẽ sớm trải qua kinh nghiệm bị giao nộp và chết. Tuy nhiên, các môn đệ của Chúa Giêsu không thấu hiểu hết được bài học đặc biệt đó. Thay vào đó, giữa họ lại có sự tranh luận gay gắt về cấp bậc cao thấp của mình với nhau. Ai cũng đòi làm người lãnh đạo giỏi nhất khi Chúa Giêsu vắng mặt. Các cuộc tranh luận của họ được kể trong Kinh Thánh.
Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã bị che mờ mắt và bị cuốn theo tham vọng quyền lực khi đề nghị Chúa Giêsu cho họ vị trí vinh dự nhất trong vương quốc trên trời, được ngồi cạnh Chúa Giêsu. Yêu cầu này đã gây ra sự phẫn nộ giữa các môn đệ. Kết quả của những cuộc tranh cãi không có hồi kết và dùng mưu mẹo để giành vị thế đã làm giảm đi sự hòa thuận giữa các môn đệ. Đứng trước quan điểm đó, họ rơi vào tình trạng nghi ngờ động cơ của nhau. Để giải quyết vấn đề này, Chúa Giêsu đã dạy họ về nguyên tắc trở thành nhà lãnh đạo phục vụ.
Chúa Giêsu gọi họ lại và bảo “Các ngươi biết: các kẻ được coi là thủ lãnh các dân tộc thì làm Chúa trên họ, và những người làm lớn nơi họ thì bắt họ phục quyền. Nơi các ngươi thì không như thế! Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi.” (Mc 10,43)
Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã dùng từ “tôi tớ” như là từ đồng nghĩa như sự cao cả. Trái lại với ý kiến thường ngày, Chúa Giêsu dạy sự vĩ đại của nhà lãnh đạo được đo bằng lời cam kết phục vụ mọi người như anh em mình.
Chúa Giêsu không chỉ dạy lãnh đạo tôi tớ, Ngài còn đưa ra khái niệm theo những cách cụ thể. Chúa Giêsu đã chứng minh bằng một hành động khiêm hạ ngang qua việc rửa chân cho các môn đệ, được ghi nhận lại trong tin mừng thánh Gioan (chương 13).
Trong văn hóa thế kỷ đầu thời Palestine, trước tiên, rửa chân không phải là phong tục trong các nghi lễ (Ford – 1991), nhưng trên thực tế nó quan trọng bởi vì người ta chỉ đi dép nên khó tránh khỏi bị dính bụi, bùn thậm chí đầy phân trên đường. Thời đó, phương tiện di chuyển là các loài động vật nên chân dễ bị dơ và có mùi. Vì vậy, việc rửa chân cho một ai đó được xem là một một trong những cử chỉ tự làm mất giá trị của mình nhất (Ford – 1991). Do vậy, theo phong tục thời đó thì chủ nhà sẽ gọi đầy tớ thực hiện công việc này trước khi mời khách vào bàn dùng bữa. Thường thì những vị khách tầm thường nhất sẽ không có đầy tớ của chủ nhà rửa chân cho họ (Ford – 1991).
Trong tin mừng Gioan, cả Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đều không được rửa chân khi họ vào nhà dùng bữa chung với nhau. Họ ngồi vào bàn với đôi chân dơ khi ở đó không có mặt của đầy tớ trong hộ gia đình. Sau khi bữa tối được phục vụ, Chúa Giêsu đột nhiên đứng dậy, “rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Sau đó, Ngài đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ, lau khô chân họ bằng khăn mà Ngài đã thắt ở lưng” (Ga 13,4-5). Hành động không mong đợi này đã làm cho các môn đệ ngỡ ngàng và đây cũng là tấm gương rõ ràng của một nhà lãnh đạo phục vụ.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. (Ga,13-15)
Chúa Giêsu biết rằng: “Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người” (Ga13,3). Hành động không được bình thường của một nhà lãnh đạo như Chúa Giêsu ngang qua việc rửa chân đã xác định ý nghĩa và chức năng về sức quyền lực của người lãnh đạo từ chỗ “quyền lực cao” đến “ngang bằng quyền lực”; đó là thứ quyền lực cho phép mình chọn lựa con đường đi phục vụ người khác.

CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ
Những tấm gương đi trước đã nêu bật cơ sở triết học của lãnh đạo phục vụ trong cụm từ “nhà lãnh đạo phục vụ là ai? và nhà lãnh đạo phục vụ cần làm gì?’. “Bản chất” và “hành động” là nét điển hình về hành động của nhà lãnh đạo mà nó bao gồm ý nghĩa căn bản và tự nhận thức được chỉ ra trong bảng sau:

Bảng 1. Khái niệm lãnh đạo phục vụ
Ý nghĩa căn bản: Trước tiên phục vụ người khác trước, không phải lãnh đạo người khác trước
Tự nhận thức: Là người đầy tớ và quản gia, không phải người lãnh đạo hay người chủ

Ý nghĩa căn bản của các nhà lãnh đạo phục vụ
có một khuynh hướng lớn – học giả và ký giả – xem các nhà lãnh đạo như những anh hùng biệt lập sống trong tháp ngà của mình để kiểm soát và điều khiển người khác (Gronn- 1995, Yukl – 1989). Trong bối cảnh của tổ chức, từ “lãnh đạo” hầu như được quy cho những người nắm giữ vị trí quản lý và có khả năng đưa các thành viên trong tổ chức đi vào nề nếp. (Senge – 1990). Thường thì trong cuộc sống động cơ chính yếu chiếm nhiều hơn, nhà lãnh đạo Herculean đã hướng dẫn các học trò của ông đạt được mục tiêu đáng tin cậy trong tổ chức. Vai trò này có chỗ đứng rõ ràng nhất định trong tổ nhưng lại trái ngược với quan điểm của Greenleaf – 1977 là nhà lãnh đạo phục vụ và những người có động cơ đứng đầu là để được phục vụ người khác và làm hết khả năng họ có.
Yếu tố động cơ của lãnh đạo phục vụ (trước tiên là để phục vụ) miêu tả sinh động điều giả định cơ bản mà phân biệt được khái niệm từ những suy nghĩ của nhà lãnh đạo khác. Điều giả định này thiết lập hình tượng trí tuệ của lãnh đạo phục vụ rằng “Tôi phục vụ” trái ngược với việc “Tôi lãnh đạo” về mặt tâm lý. Lý do cơ bản tại sao lãnh đạo là trước tiên phải phục vụ chứ không phải lãnh đạo trước. Đặt nó vào bối cảnh khác, lãnh đạo phục vụ làm việc dựa trên sự giả định rằng: “tôi là nhà lãnh đạo vì vậy tôi phải phục vụ” hơn là “tôi là nhà lãnh đạo vì vậy tôi phải lãnh đạo”.
Hai giả thuyết này có thể xuất phát từ sự việc khiêm hạ đã đề cập ở trên: tôi phục vụ bởi vì tôi là nhà lãnh đạo và tôi là người lãnh đạo bởi vì tôi phục vụ. Trong khi cả hai giả thuyết này đều hàm ý một mối quan hệ có chiều sâu giữa hành động phục vụ và vị trí lãnh đạo, nó trái ngược với cụm từ nguyên nhân và hậu quả.
Giả thuyết đầu tiên “tôi phục vụ bởi vì tôi là nhà lãnh đạo” – biểu hiện hành động vị tha. Sự mô tả về lãnh đạo phục vụ của cả Chúa Giêsu và Greenleaf đều nhấn mạnh phục vụ, trái ngược với hành động lãnh đạo của một người lãnh đạo. Là một người thầy lãnh đạo của các môn đệ mình, Chúa Giêsu đã rất thận trọng khi tuyên bố với họ “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27). Greenleaf (1977, tr.13) đã thừa nhận rằng lãnh đạo phục vụ “bắt đầu việc cảm nhận tự nhiên là một người để đi phục vụ và phục vụ trước hết”. Bản chất cốt lõi của lãnh đạo phục vụ là phục vụ, không phải là lãnh đạo (De Pree, 1989). Hành động phục vụ mà các nhà lãnh đạo hướng dẫn người khác những những điều họ đang thể hiện khả năng của họ.
Giả thuyết thứ hai “tôi là người lãnh đạo bởi vì tôi phục vụ” bắt nguồn từ mong ước thầm kín của một người muốn lãnh đạo hay tham vọng có vị trí cao nhất trong một nhóm người. Niềm khao khát được đưa lên vị trí cao hơn có lẽ là một thỏa hiệp cho sự nỗ lực trong nghề nghiệp, hay tham vọng cá nhân được làm người lãnh đạo. Tuy nhiên, câu hỏi mang tính chất xác thực của Choi và Mai-Dalton (1998) qua hành động này đã nhận xét rằng nó có thể đơn thuần không là gì nhưng nó là một chiến thuật gây dấu ấn cho những người theo họ và lôi kéo được sự hưởng ứng đáp lại của họ.

“BẢN CHẤT”: TỰ NHẬN THỨC CỦA NHÀ LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ
Quan niệm tự nhận thức được gắn liền với sự tự nhận thức về chính bản thân, lòng tự trọng, tự cảm nhận và hiểu được bản thân (Leonard, Beauvais và Scholl, 1995; Sosik và Dworakivsky, 1998). Sử dụng định nghĩa này, sự tự nhận thức của các nhà lãnh đạo liên quan đến phạm vi mà họ tự nhận thức được suy nghĩ của họ, lòng tin và giá trị. Giống như thành viên khác, các nhà lãnh đạo cư xử theo cách phù hợp với nhận thức của họ (Sosik and Dworaki – 1998). Vì thế, ý nghĩa cơ bản của lãnh đạo phục vụ là để phục vụ, có lẽ bắt nguồn từ sự tự nhận thức của họ như một người vị tha và có lòng đạo đức.
Các nhà lãnh đạo phục vụ quan niệm về chính mình trước tiên như một người phục vụ, như một nhà lãnh đạo thành công. “là người phục vụ vượt trên tiếng nói của lương tâm hay tuân theo những mong đợi mang tính chất quy chuẩn (Greenleaf – 1997:14). Theo quan điểm này, nhà lãnh đạo phục vụ là người phục vụ không giả tạo (Farling, Stone & Winston – 1999; Greenleaf – 1997). Tóm lại, nhà lãnh đạo phục vụ không chỉ “thực hiện” hành động phục vụ mà còn mang “bản chất” của một người đầy tớ. Vì vậy, mối quan hệ của những người học làm lãnh đạo có ngụ ý là một khách-chủ, không phải mối quan hệ của người giám sát – cấp dưới hay ông chủ – nô lệ.
Các nhà lãnh đạo phục vụ cũng phải có tầm nhìn như một người quản gia (De Pree – 1989; Kiechel – 1992; Senge – 1990). Từ “cương vị quản gia” xuất phát từ tiếng Hy lạp “oikonomia” nghĩa gốc của từ này là người quản gia trong gia đình (locyker – 1986). Từ “oikonomos” dịch ra là “quản lý” được giao phó trách nhiệm quản lý tất cả các việc liên quan trong hộ gia đình. Nó được xem như là một người có trách nhiệm quản lý về tài sản, tiền bạc, của cải hay những người đầy tớ khác. Trong thuật ngữ hiện tại của chúng ta, từ mang ỷ nghĩa như một người ủy thác là người làm một điều gì đó có giá trị đáng tin cậy. Block (1993) nhận định rằng khái niệm về một người giữ cương vị quản gia chủ yếu là người sãn sàng đứng ra chịu trách nhiệm về sự sung túc cho tập thể bằng cách hoạt động trong sự phục vụ những người xung quanh. Người quản gia là người lãnh đạo mang đặc tính then chốt của một nhà lãnh đạo phục vụ. Là quản gia, các nhà lãnh đạo phục vụ quan sát những người theo họ có phải là người đáng tin cậy không, có sự nhận thức cao không và khả năng của họ làm được gì?
Nó rất quan trọng để lưu ý rằng sự chọn lựa có cân nhắc của nhà lãnh đạo phục vụ và là một người phục vụ không nên gắn liền với bất kỳ hình thức nào mang tính chất tự nhận thức về bản thân kém cũng giống như không nên chọn cách tha thứ vì nó thể hiện sự mềm yếu. Thay vào đó là một nhà lãnh đạo có sự hiểu biết chính xác, tự nhận thức về bản thân mình, có sức thuyết phục về mặt đạo đức, cảm xúc ổn định để đưa ra chọn lựa đúng đắn.
Một điển hình sâu xa về một người lãnh đạo phục vụ đáng tin cậy là chính Chúa Giêsu “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ” (Ph 2,3-8). Bình luận về sự kiện rửa chân, Ford (1991) đưa ra quan điểm rằng đó không phải là sự mềm lòng mà Chúa Giêsu bị ép làm như một người đầy tớ trong trường hợp này. Thay vào đó là sự tự nhận thức về bản thân mà Chúa đã đưa ra một quyết định thận trọng của mình; “Ngài đã mang lại sự an toàn đến cho con người mang giống hình ành Ngài” (Ford, 199, tr.153)
Nhiều tác giả đã tranh luận rằng nguồn gốc của nền tảng thúc đẩy của một nhà lãnh đạo phục vụ nằm ở các nguyên tắc, giá trị và lòng tin của họ (Farling, Stone & Winston – 1999) hay sự khiêm tốn, sự hiểu biết tâm lý của họ (Graham – 1991). Các yếu tố thúc đẩy bên trong này cho phép các nhà lãnh đạo phục vụ đóng vai trò như một người tôi tớ. Trên thực tế, chúng cho phép các nhà lãnh đạo phục vụ thu hút bằng cách cư xử tự hy sinh của họ (Choi & Mai-Dalton – 1998).

QUÁ TRÌNH TIẾN TRIỂN CỦA LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ
Nhà lãnh đạo phục vụ và nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn
Nhà lãnh đạo phục vụ và nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn có chung nguồn gốc trong Kinh thánh. Ngay từ những năm đầu, khái niệm về lãnh đạo phục vụ có nguồn gốc trong Kinh thánh như là khái niệm của một người có uy tín. Nhà xã hội học – Max Weber (1947) đã có cuộc nghiên cứu đáng kể nhất về việc đánh giá về tư cách đạo đức của người được xem là có sức thu hút. Weber (1947:48) đã định nghĩa từ Hy Lạp “charisma” trong hội thảo của ông về cuốn sách “lý thuyết của tổ chức kinh tế và xã hội” như là “một người (lãnh đạo)” có tư cách và phẩm chất tốt thì gây chú ý cho những người bình thường và được xem như là một người phi thường hay ít ra cũng là người có phẩm chất đặc biệt”. Trong định nghĩa này, Bass (1999) đưa ra nhiều phát biểu có trong khái niệm kinh thánh và người “có sức thu hút” được xem như là món quà linh thiêng. Trên thực tế, Weber phát triển định nghĩa này dựa vào từ “charisma” trong kinh thánh (thư Rôma và Côrintô) và cơ bản là trong các tổ chức tôn giáo là nơi hợp pháp của những người bình đẳng không có quyền lực.
Weber đã phát triển sự hiểu biết của mình bằng việc quan sát bộ máy quan liêu của người Phổ vào đầu thế kỷ 20 và động cơ quyền lực của người nắm quyền trong xã hội của người Phổ (Bass- 1999). Sự tiếp cận này đã chuyển khái niệm “người có sức thu hút” từ phạm vi của lý thuyết đến xã hội học và vì thế đã thay đổi ý nghĩa ban đầu của từ “charisma” (Bass -1999). Các cuộc nghiên cứu sau đã nghiên cứu từ “charisma” trong khoa học chính trị, xã hội học và cách cư xử trong tổ chức (Conger – 1993).
Tuy nhiên, có lỗ hổng từ thực tiễn và dựa trên các khái niệm lớn còn lại giữa khái niệm lãnh đạo phục vụ và lãnh đạo có sức thu hút. Không giống như lãnh đạo có sức thu hút đã được nghiên cứu có hệ thống và được phát triển theo lý thuyết đã kiểm tra nghiêm ngặt, khái niệm lãnh đạo phục vụ vẫn giữ lại động thái và lý thuyết chưa được thực nghiệm (Bass -1999).
Farling, Stone, và Winston (1999) nhận định rằng khái niệm lãnh đạo phục vụ của Greenleaf giống như lãnh đạo biến chuyển của Burn mà Grama (1991) đã chia sẻ. Grama (1991) mặc nhiên công nhận rằng nhà lãnh đạo phục vụ giống với nhà lãnh đạo có sức thu hút khi có những nét đặc trưng để nhận biết với các hình tượng lãnh đạo có sức thu hút trước đó. Cụ thể hơn Grama (1991) tranh luận rằng lãnh đạo phục vụ vượt trên hình tượng lãnh đạo biến đổi như quan niệm của Bass (1985) ít nhất là theo 02 cách: (1) sự công nhận trách nhiệm xã hội của người lãnh đạo là để phục vụ những người bị xem là không quan trọng trong hệ thống. (2) sự cống hiến cho những nhu cầu và lợi ích của những người theo họ thì tương phản với họ hay tổ chức của họ.

KẾT LUẬN
Các nét tiêu biểu phân biệt của lãnh đạo phục vụ nằm trong ý nghĩa cơ bản và sự tự nhận thức của họ. Các nhà lãnh đạo phục vụ miêu tả sinh động tính cách mạnh và có sức thuyết phục đầy kiên định không chỉ vai trò của một người đầy tớ mà còn là bản chất của một người đầy tớ. Trường hợp của lãnh đạo phục vụ được sắp đặt trong tổ chức vẫn tồn tại và sẽ tiếp tục phát triển.
Nhiều tổ chức kinh doanh, công nghiệp đã ứng dụng phong cách lãnh đạo phục vụ của mình và đã thành công trong nhiều năm. Levering và Moskowitz (2000) cho rằng lãnh đạo phục vụ đã được thực hiện và áp dụng ở một số công ty lớn ở Mỹ, dựa vào khảo sát từ tạp chí Fortune. Theo như Levering và Moskowitz (2000), sáu tiêu chuẩn nhận dạng của những công ty này: sự cởi mở, sự công bằng, sự thân thiết, cơ hội, niềm tự hào về công việc và công ty, tiền thưởng/quyền lợi và an toàn. Tạp chí Fortune năm 2001 đã xếp hạng các công ty theo thứ tự như sau: Hãng hàng không Tây Nam (4); Công nghiệp TD (6); Tài chính Synovus (8). (Levering và Moskowitz – 2001).
CEO và chủ tịch của Công Nghiệp TD, Jack Lowe (1998) nhận định rằng khi con người trở thành lãnh đạo phục vụ thiết lập tăng độ tin cậy và nền tảng cho những thành viên ưu tú trong tổ chức. Chủ tịch và CEO Jimmy Blanchard đã vạch ra những giá trị trong công ty theo những cách sau đây: “Trái tim của người lãnh đạo phục vụ mang lại nề nếp, mang lại ý nghĩa cho nhân viên. Khi nhân viên cảm thấy được sự nề nếp và ý nghĩa, chúng là một phần trong đội và khởi xướng thứ gì đó rất tốt, đó là lời kêu gọi cao hơn khi chỉ làm việc vì tiền công; đó là cải tiến của nhân loại; đó là giá trị năng lượng bùng nổ và những điều vĩ đại xảy ra” (Chappel 2000:5). Những nguyên tắc của lãnh đạo phục vụ cung cấp nền tảng của chủ nghĩa vị tha; được định nghĩa như là phục vụ mang tính chất xây dựng làm hài lòng người khác, và là một trong những giá trị cốt lõi của Southwest (Quick – 1992). (Quick – 1992) đã ghi nhận những nhân viên của Southwest đánh giá là việc gần gũi quan tâm họ, đánh giá lẫn nhau cũng như phục vụ người khác.
Còn chúng ta, là những nhà lãnh đạo mục vụ, những người môn đệ của Thầy Giêsu, chẳng lẽ chúng ta không thể cảm nghiệm và thực hành phong cách lãnh đạo phục vụ của Thầy? Hãy bắt đầu lại cho một khởi đầu mới của tiến trình phúc âm hóa đời sống cộng đoàn của chúng ta.
Mong thay.

Huyền Nhiệm Tình Yêu

Huyền Nhiệm Tình Yêu

Thiên Chúa đã vào đời.
Người đã sinh ra làm người trong thân phận một Hài nhi bé bỏng, nằm rét run trong máng cỏ bò lừa. Hình ảnh này đã là sự gợi hứng cho biết bao thi sỹ, nhạc sỹ và họa sỹ. Đó cũng là điều mà không ít các nhà đạo đức, thần học say sưa chiêm ngưỡng và khai thác.
Đối với đông đảo quần chúng, lễ giáng sinh là một ngày vui. Vui cho trẻ em, vui cho người lớn; vui cho tín hữu và vui cho cả những anh em chẳng tin gì vào con người mang tên Giêsu.
Thế nhưng, năm qua năm, lễ đến rồi lại đi. Dường như ngày lễ chẳng để lại một dấu vết, một ấn tượng hay kỷ niệm nào trong tâm hồn chúng ta. Thậm chí, đôi lần, sau ngày lễ, đó là cả một chuỗi ngày day dứt, buồn bã trong những hối tiếc. Một trong những lý do dẫn chúng ta đến những điều đó, chính là chúng ta chưa có thể khám phá ra cái cốt lõi của Mầu Nhiệm mà chúng ta mừng kính. Trong ánh lửa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã đem đến trần gian, chúng ta cùng dừng lại để say ngắm một một huyền nhiệm của tình yêu: Tình Yêu mang tên Giêsu.
1. Một tình yêu đi tìm gặp
Gặp gỡ là một trong những việc thường tình của đời sống con người. Gặp gỡ ngoài đường, phố chợ… gặp gỡ trong quán ăn, trong tiệm nước, chốn du lịch, nơi vui chơi… con người vẫn đang tiếp tục gặp gỡ nhau nơi chính họ sinh sống, trong nhà của họ, trong làng mạc, xứ sở của họ. Nhưng những cuộc gặp gỡ như thế chưa có thể làm nên một cuộc tình đích thực. Tình yêu đích thực đòi hỏi phải gặp gỡ anh em trong chính cuộc đời của họ, cuộc gặp gỡ của con tim, để rồi ở lại cùng nhau.
Qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã và đang tiếp tục thực hiện một cuộc gặp gỡ và ở cùng với nhân loại. Tên của Ngài là Emmanuel, là Thiên Chúa ở với chúng ta.
Tuy là Thiên Chúa, Đức Kitô đã không muốn xuất hiện trong tư thế của Thiên Chúa, nhưng Người đã xuất hiện như một phàm nhân. Một vị Thiên Chúa cao sang thánh thiện quyền năng… đã lại đến với chúng ta trong thân phận một trẻ thơ nghèo khó, bé bỏng.
Ngài đã đến trong thân phận con người như chúng ta, và ở giữa chúng ta. Ngài không đến theo kiểu thần thoại, nghĩa là như tiên giáng trần, như thần hóa thân. Ngài đã đến để “cắm lều ở giữa nhân loại”, “ở với con người”; hầu thực hiện và làm chứng cho một cuộc tình: sống và chết cho người mình yêu.
Không đi vào trong huyền nhiệm của Tình Yêu tìm gặp và ở cùng này, việc mừng lễ của chúng ta chỉ mang dáng dấp của những lễ hội trần thế và đánh mất chiều kích linh thánh. Chúng ta, hơn bao giờ hết, đang được mời gọi để khám phá lại huyền nhiệm của tình yêu tuyệt vời trong mầu nhiệm này.
2. Yêu là sẻ chia
Đức Kitô đã đến để chung sống, đồng hành và chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Một vì Thiên Chúa đã trở thành anh em với nhân loại. Người đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại trong cùng những suy tư và hành động; đồng thời hướng dẫn những suy tư và hành động của con người tới sự hoàn thiện của Thiên Chúa. Ngài đã muốn chia sẻ trọn cuộc sống làm người cùng với con người bằng con tim phục vụ và dâng hiến.
Hơn thế nữa, khi vào đời, Thiên Chúa còn muốn làm một người nghèo giữa những người nghèo bị áp bức và bỏ rơi. Người muốn cho đêm giáng sinh trở nên khởi đầu của một tình yêu cao cả: Con Chúa trở thành người anh em bé nhỏ và nghèo nàn nhất của loài người. Đêm Người đến trở thành đêm gặp gỡ, giao hòa đất trời: con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau trong bình an. Người muốn đêm giáng sinh trở thành đêm Đấng Tuyệt Đối Khác Lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, hầu con người nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Người muốn đêm giáng sinh trở thành đêm Đấng giàu sang trở thành người nghèo khó, để cho kẻ nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như thế, để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng Thiên Chúa.
Bởi thế, việc mừng lễ hàng năm của chúng ta phải được đưa dẫn vào trong sự thông hiệp và sẻ chia mà Người đã và đang tặng ban cho chúng ta khi Người đến ở giữa chúng ta. Nói cách khác, chỉ khi chúng ta cảm nghiệm được hồng ân được trao tặng cách cá vị, chúng ta mới có thể sống niềm vui của hồng ân này trong tinh thần của sẻ chia. Chính lúc đó, huyền nhiệm của tình yêu chia sẻ của Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể mới có thể trở nên sự linh thánh tròn đầy trong chính cuộc đời của chúng ta.

Đã qua 2000 năm, Thiên Chúa đã đến với con người để nâng dậy một tình yêu. Nhưng xem ra vẫn còn đó những cuộc chiến đẫm máu – những con người đau khổ, nghèo hèn – những đứa trẻ không nhà không cửa, lang thang…
Chương trình của Thiên Chúa không thất bại như nhiều người lầm tưởng. Thiên Chúa cần con người sống mầu nhiệm này với tất cả sự cảm nhận về tình yêu cách hoàn hảo nhất theo khuôn mẫu của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Niềm vui còn đến với chúng ta khi chúng ta chia sẻ niềm vui cho những người xung quanh. Bởi vì, khi một niềm vui nào được chia sẻ, niềm vui ấy sẽ được tăng lên gấp bội.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng con thật vui khi được tiếp xúc với Chúa dưới hình dáng nghèo hèn, nhỏ bé. Chúng con hiểu rằng “niềm vui là tình yêu. Niềm vui là một lời nguyện; niềm vui là cái lờ của tình yêu, trong đó chúng con có thể đón bắt các linh hồn”. Chúng con cũng hiểu rằng Chúa yêu thương những trao ban và dâng hiến với niềm vui. Xin giúp mỗi chúng con, không chỉ trong mùa Giáng sinh này nhưng mãi mãi, biết hiến dâng và trao ban tình yêu mà chúng con đã lãnh nhận cho mọi anh chị em mà chúng con đang tiếp tục gặp gỡ trên hành trình cuộc đời chúng con. Amen.